Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Trong nỗi rã rời



TRONG NỖI RÃ RỜI
                               Cho Th/úy Cần, Bùi, Hữu,Lô,Hùng
                            và các bạn ở khu ngoại  khoa  4 T.Y.V Cộng- Hòa năm 1967

       Dòng nước trôi lờ đờ và lặng lẽ. Màu nước đục đen ngòm. Hai bên bờ nước rút để lộ bãi sình đen đầy rác rến đủ loại mắc víu vào các cột cừ làm sàn nhà. Trước đây các cột cừ làm bằng gỗ tạp cây xiêu, cây vẹo lấn ra ngoài mặt sông độ vài thước. Nhưng từ ngày có chiến tranh, người ta đỗ dồn về thành phố mỗi ngày mỗi đông. Các sàn nhà thi nhau bò thêm ra ngoài sông. Dòng sông càng lúc càng bị thu hẹp dần.Và để chắc chắn hơn hầu chứa bà con thân thích về sống chung đụn nhau càng lúc càng đông. Các cột đúc xi măng được thay vào các cột gỗ làm trước đây. Hai dãy nhà hai bên dòng sông có nơi như gần đâu đít vào nhau.Nước chãy luồn lẩn dưới chân người. Lấp xấp khi nước lớn và cạn quánh khi nước rút. Một lúc nào đó rất mau, có lẽ dòng sông sẽ mất hẳn, bị lấp đầy. Một nền móng mới sẽ úp chụp lên. Quá khứ về dòng sông chỉ còn là một chuyện kể.
         Tú ngồi mấp mé trên sàn gỗ, chân thã lõng xuống bên ngoài. Một chiếc ghe gắn máy đuôi tôm vừa chạy qua. Chàng nhìn dòng sông nước dạt đùa ra hai bên bờ. Có lúc chàng thấy mình như bị lắc lư. Mùi hôi thối từ dòng sông hắc lên tanh tưởi. Chàng bỗng dưng thấy muốn nôn mữa, nhưng có cái gì đó chận cứng lại ở cổ. Bực bội. Khó chịu. Cái ứ đọng dồn trong cơ thể như sự vướng mắc của cuộc đời.Tú bây giờ không lối thóat như vứt bõ thừa thãi.Từ ngày bước ra khỏi T.Y.C Cộng Hòa với đôi nạn gỗ .Bây giờ là thằng Tú tật nguyền thằng vô tích sự, thằng báo đời.Tú muốn quay đầu trở vào nằm lại với bè bạn trong trại. Ở đó chung quanh là bạn bè thương tật, là đồng bạn dừng chân chiến cuộc, là thời khắc nghĩ ngơi trong đau đớn thân thể, là những nỗi buồn bã rã rời! Có những đứa quơ quơ cánh tay cụt, có đứa ngút ngoắc khúc chân cưa. Đứa ngồi nghiêng ngã, đứa thiêm thiếp hôn mê, đứa nhảy cò cò, đứa ngồi xe lăng. Đứa…Đứa…Tất cả cùng hội ngộ trong bản hợp tấu bi thương cười nắt nẽ khóc vở trời. Thằng Cần hét lớn “Trời ơi đau quá, cho tôi xin một phát súng…” Thằng Hữu đưa hai tay ôm chiếc đùi mím môi chịu đựng cho y tá đổ thuốc rửa vào đầu thịt đã bung chỉ, khúc chân phía dưới từ bàn chân lên tới gần đầu gối bị dập nát vì đạp mìn đã bị cắt rời thân thể nó từ hơn một tuần nay.Từng giọt máu chảy thấm xuống miếng vãi lót. Đôi mắt nó nhấm nghiền, đầu thịt run run như khúc đuôi con thằng lằng bị đứt ra. Mồ hôi rịn ướt sau lưng.Thằng Hùng vừa mới đẩy từ phòng mỗ ra.Mặt tái xanh, đôi mắt nhấm nghiền bởi thuốc mê chưa hết. Người yêu của nó vào thăm khóc thúc thít. Những giọt nước mắt lăn chảy nhẹ nhàng. Tú chợt nghĩ không biết cô gái kia có phải khóc thật không? Mấy lúc gần đây Tú đâm ra nghi ngờ mọi thứ. Bởi vậy tình cãm của chàng đâm ra hời hợt và lơ đểnh. Thằng Bùi sinh viên năm thứ hai văn khoa bị động viên vào Thủ Đức. Ra tra trường đổi về sư đoàn 21 Bộ Binh được hai tháng, đạp phải mìn của V.C ở Cà-Mau bị cưa cụt hai chân gần tới háng, một tay gần tới nách, còn một tay lăn xe thơ thẫn ngoài hành lang. Nhân diện hóa kiếp dị hình. Người yêu đến gặp một lần để rồi đi mất dạng. Bùi đã tự lăn mình cho rơi xuống đất mấy lần, nhưng chưa chết được. Dần dần với lời khuyên của bạn bè. Nhất là má của Bùi khi vào thăm thường nói với nó “Con ơi! bây giờ má tin rằng con không phải đi lính nửa, con sẽ về ở bên má. Má sẽ lo cho con con ơi!... .
          Tú ngồi dựa lưng vào tường đưa cái chân cụt lên nhìn. Mũi khâu đã sạch, vết thương đã lành. Có lẻ vài hôm Tú được đưa qua khu chỉnh hỉnh để đo làm chân giã. Ôi đoạn chân của ta bị cắt đi và chắc bị vất vào đống rác thối tha. Đoạn chân mà ta đã chạy trên đồng cùng bọn trẻ trong xóm. Đoạn chân ta nhảy cò cò với đám con gái trong sân lúa. Đoạn chân đạp xe đi học trên đường làng. Đoạn chân được mẹ cha ve vuốt tròng trành trong nôi. Đoạn chân được mẹ đâm lá dăm bụt đấp mụn nhọt. Đoạn chân ngày xa mẹ đi vào đời với lời dặn dò :“Ráng giử gìn thân nơi xứ người nghe con”. Má ơi! thân thể của con ngày xưa mẹ cha ôm ấp, nâng niu. Mỗi khi trượt ngã, chỉ một vết nhỏ trầy ba má cũng đã  xót dạ xuýt xoa. Bây giờ thân con đã thoát khỏi vòng tay ba má, đã đi vào đời, đã lăn vào cuộc chiến. Má luôn cầu nguyện Trời Phật phò hộ cho con được bình an trong bước đường quân ngũ.Nhưng khi biết được con đã bị mất một đoạn chân.Má nói trong lần đến thăm và an ủi Tú: “May cho con tôi còn sống, mất một đoạn chân không sao đâu con! biết bao nhiêu người chết mất xác! “Ôi nỗi chịu đựng của má cũng như không biết bao nhiêu sự chịu đựng của muôn người mẹ Việt-Nam trong quê hương chiến tranh nầy. Tất cả cam lòng cúi mặt. Đến bao giờ cho lòng mẹ “Bao la như biễn Thái Bình” được ôm các con của mình từ muôn chiến trường về.?!
           Chiều tối mà Hùng vẩn chưa tỉnh. Thằng Lô lăng xe đến bên giường Hùng đưa tay vào mũi nó để xem nó còn thở không? Thằng Cần nói: Nó cũng gần tỉnh rồi, ba lần mỗ,chắc lần nầy đánh thuốc mê hơi nhiều. Tú nói vói: Chắc là vậy và chóng gậy đi ra ngoài hành lang. Buổi tối T.Y.V yên lặng, đèn vàng lù mù buồn bã.Gió lạnh hơi se se da thịt.Có tiếng chim cú kêu cú cú ở một ngọn cây nào đó nghe rợn người. Bùi ngồi trong một khoãng tối của dãy hành lang hút thuốc. Một vài người đi thơ thẩn trên con đường mù mù như những bóng ma . Tú đến gần Bùi và nói:
           -Đêm ở đây thãm như bãi tha ma.
           -Bọn mình là những bóng ma hiện hình 
           -Lúc trước tao nghĩ nếu bị thương như thế nầy đành chết cho xong! Mày thấy đó tao mấy lần muốn chết mà chết không được. Bây giờ...Bùi thở dài và nói tiếp: Bây giờ  thì thôi!
Tôi thẩn thờ:
           -Chúng ta còn ruột rà thân thích.Chết đâu dễ?
           -Đó là nỗi đau đớn của chúng ta phải cắn răng chịu đựng trong hoàn cảnh buồn  nầy.
           -Chúng ta là kẻ báo đời
           -Ừ là vậy!
           - Chúng ta đang hít thở,nhưng đã chết bên đời.
            Bùi bún đoạn thuốc còn lại xuống mương nước.Buổi tối xuống đen ngòm với vài tiếng dế kêu the thé ở đám cỏ, hình như có mùi hoa sứ thoang thoãng đâu đây.? Trong yên lặng não lòng nầy bỗng ngân lên tiếng sáo trúc bãn nhạc “Tiếng Xưa” của Dương Thiệu Tước.Tú hát khẽ theo hoàng hôn lá rơi bên thềm,hoàng hôn… tơi bời lá thu… sương mờ,ngậm ngùi sữ xanh...bâng khuâng…tím loang bên thềm. Đâu bóng trăng xưa ..rặng liễu mơ màng...phai tàn một thời liệt oanh…ai đó tri âm biết cùng?.
           Chị Cưỡng đã về.Tú nghe tiếng chị nói chuyện với bác Dốn ở phía trước nhà. Bác Dốn là người cùng quê với Tú. Khoảng sau năm 60 chiến tranh bắt đầu lan rộng. Du kích nổi lên khắp nơi. Các cuộc chạm tráng giữa lính Quốc gia và Việt Cộng ban đầu ở xa xa, càng ngày càng sát làng quận. Pháo binh được kéo về quận hai cây 105 ly bắn ì ầm. Bác Dốn bàn với ba Tú:
              -Phải đi à anh hai.Ở đây có ngày chết không toàn thây đa.
Ba Tú nói:
              -Đi đâu bây giờ anh nhà cửa, ruộng nương của mình bỏ lại cho ai coi đây, đi đâu phải dễ đâu anh!
              -Thời buỗi giặc giã hơi đâu mà lo giử của, ráng giữ lấy cái thân, còn người thì còn của mà anh hai.
              -Đành vậy rồi, nhưng vào thành biết làm gì ăn. Mình quen làm ăn với ruộng vườn rồi. Đi vào đó chắc chết đói!
              -Người ta sống được mình sống được hơi đâu mà lo.
BaTú suy nghĩ một hồi lâu rồi nói:
              -Thôi anh tôi quyết định ở lại. Đánh nhau rồi cũng có lúc thôi chớ đánh nhau hoài sao?!
              -Tôi thấy cái điệu nầy chắc còn lâu lắm anh Hai. Nghe đâu Mỹ bắt đầu vô rồi đó Ngoài Bắc thì có Trung Cộng và Liên Sô….Bác Dốn rầu rĩ tiếp : Ôi cái ngữ giặc từ đâu đem tới rồi xúi tụi mình đánh với nhau. Nói rồi bác lắc đầu ra vẽ ngao ngán buồn rầu. So với ba Tú, bác Dốn theo dõi thời cuộc nhiều hơn, nên bác có vẽ rành rẽ. Ba Tú ngồi rê rê điếu thuốc và nhìn ra ngoài cánh đồng lúa mênh mông.
             Ít tháng sau đó gia đình bác Dốn dọn về Quận ở, rồi khi chồng chị Cưỡng đi lính đia phương quân bị tử trận. Sau khi chôn cất chồng xong, chị theo người bà con lên Sài Gòn đi làm công cho tiệm bán hủ tiếu của một người Tàu ở Chợ Lớn. Lần hồi bác Dốn và cả gia đình cùng lên sống luôn ở quận 6. Nhờ chắc mót, tằng tiện và có đươc vài cây vàng tích lũy. Bác Dốn mua một căn nhà trong cái hẽm dài sâu bên trong, gần sát con sông nhỏ.Sau nầy khi bị động viên đi lính, vào những ngày cuối tuần Tú thường ghé nhà bác Dốn và ở lại đó. Bác rất thương Tú .Bác thường nói với Tú: Cháu nên tự nhiên, bác xem cháu như là cháu ruột của bác. Đi đâu thì đi, hể về Sài gòn là cứ ghé nhà bác. Hồi ở dưới quê bác với ba cháu coi nhau như anh em vậy. Ở trên nầy ồn ào, lạt lẽo lắm không như ở dưới mình. Giặc giã bây giờ không chừa ở đâu cã. Lên trên nầy tưởng được yên đâu dè cũng ầm ì như ở dưới. Mìn nổ tùm lum, pháo kích tùm lum không biết đâu mà tránh!Biết như vầy thà ở dưới đó. Tú nghe bác than thở mà ngậm ngùi và nhớ làng quê vô cùng. Ôi đường về!Tú nhìn cái chân cụt của chàng và nghĩ ngợi “Ta phải sống thế nào đây trong những ngày tháng sắp tới?!”
            Từ  lúc có nhà riêng chị Cưỡng  không còn đi phụ việc cho tiệm hủ tiếu nửa. Chị nấu chè gánh đi bán trong xóm.Chị nói làm nghề tự do thì có thì giờ cho gia đình hơn và nhất là khỏi bị người ta la rầy. Công việc của chị là sáng thức thật sớm nấu xôi gánh  đến bán trước  một tiêm cà-fê ở đầu con hẽm. Trưa về nhà lo cơm nước cho gia đình và nấu một nồi chè cho buổi bán từ xế chiều đến tối. Sau khi xếp giống gánh vào một gốc chị nhìn Tú và hỏi:
                -Hôm nay có chuyện gì mà trông Tú ngồi buồn hiu vậy?
                -Ngồi ngoài nầy cho mát…và Tú ngập ngừng.Cưỡng cười và nói:
                -Và nhớ nhà chứ gì?
 Tú gật đầu và nói:
                 -Ờ Tú đang nhớ nhà và nghĩ về tương lai của mình.Với cái thân tật nguyền nầy không biết rồi sẽ ra sao?!Và làm gì để sống?
                -Tú đừng buồn, mọi việc rồi cũng đâu vào đó. Hồi khi Cưỡng mới lên trên nầy, thấy cũng khó khăn lắm, nhưng từ từ rồi mọi thứ cũng xong. Trời sanh voi,sanh cỏ mà Tú. Tú nhìn chị Cưỡng và thầm nghĩ chị là con người rất có nghị lực và rất đơn giãn. Chồng mới chết một thân một mình lên Sài Gòn sống. Hôm nay với tài xoay sở của chị, cả nhà có cơ ngơi như thế nầy quả là đáng thán phục. Tuổi gần 30, nhưng trông thấy chị còn rất trẻ. Khuôn mặt chị lúc nào cũng ánh lên sự vui tươi và đầy tự tin.Có lúc Tú hỏi:
                  -Sao chị không tái giá?
Chị cười và lắc đầu:
                 -Ở như vầy sướng hơn Tú ơi!
 Tú nghĩ, tuy nói vậy chứ Tú thấy trong chị chắc vẫn còn một nỗi ước ao thầm kín nào đó chị còn trẻ và với sắc diện còn đầy mặn mòi, chị làm sao tránh khỏi những bướm ông. Chị đang chờ thôi!? Trong ý nghĩ đó vô tình Tú đâm đâm nhìn chị.Cưỡng ngước mặt về hướng Tú. Thấy Tú nhìn mình, chị bẻn lẻn nói:
                 -Tú đói bụng chưa…?đễ Cưỡng dọn cơm cùng ăn cho vui nha? 
                 -Chưa đói lắm …nhưng ...tối rồi ..
Cưỡng đứng dậy và đi vào bếp.Cưỡng hỏi vói:
                 -Vài hôm nửa Tú về quê phải không? Cưỡng nghe ba nói.
                 -Chắc phải về thôi chị.Ở đây hoài làm phiền chị và bác nhiều quá rồi.
                 -Tú đừng nói vậy có gì mà phiền. Chổ quen biết chứ xa lạ gì đó mà Tú ngại.
                 -Nói đùa với chị chớ Tú biết, nhưng chị ơi! Tú phải về. Cho dù tật nguyền như thế nầy Tú cũng ráng lết về ,rồi ra sao thì ra.!Có chết cũng chết gần mồ mã ông bà…..
Cưỡng có vẽ buồn buồn vì câu nói của Tú. Có lẽ chị cũng nhớ làng quê-với xóm nhà-với liếp cãi vườn rau đã bõ hoang trong lửa đạn. Cũng có thể chị nhớ nấm mồ của chồng chị ở đó bây giờ có còn không hay đã bị bom đạn cày xới mất rồi? Từ cái máy cassette của nhà bên cạnh vừa phát lên “Người chết hai lần thịt da nát tan” Cưỡng ứa nưóc mắt “Anh ơi! Anh có chết thêm một lần nửa không?Nhang khói nào đâu cho phần mộ bõ hoang.Em bây giờ xa cách bên trời. Hồn anh có đi tìm em không? Em hứa với lòng khi nào yên chiến tranh em sẽ về quê lo vun đấp lại phần mộ cho anh. Sống ở giửa đô thành bon chen giã trá nhiều hơn chơn chất nầy làm em sợ quá anh ơi!
             Sau bữa cơm Tú lại ra phía sau ngồi hút thuốc và nhìn dòng sông về đêm lấp lánh ánh đèn từ các ngôi nhà dọc theo hai bờ sông hắc xuống làm những khoãng tối sáng không đều . Bên trong nhà sáng lòa. Bóng chị Cưỡng hắt lên vách, mái tóc dài của chị làm một vệt đen che lấp khuôn mặt. Chị đang đứng quay lưng về phía Tú. Ánh đèn làm thân hình chị lộ ra mờ ảo sau lớp áo mõng những đường cong tuyệt đẹp. Tú ngẩn ngơ nhìn chị không chớp mắt. Chị quay lại nói: Về dưới ấy thỉmh thoãng lên đây chơi nghe Tú?Tú nói: chắc là vậy. Chị Cưỡng vói tay lấy cái khăn và bộ đồ máng ở cái móc trên vách. Chị đi vào buồn tắm gần đó.Tú nghe chị dội nước xào xạc bên trong sau đó. Hình như Tú vừa trãi qua một cơn cảm xúc nhẹ nhàng.
            Đêm hôm đó Tú nằm trằn trọc mãi đến quá nửa khuya. Một lúc nào đó Tú chìm đi trong giấc ngủ say vùi. Chàng nằm mơ thấy chị Cưỡng cùng Tú về quê trên chiếc xe đò. Khi xuống xe bác Dốn đi trước, chị Cưỡng dắt tay Tú đi trên con đê cỏ mọc xanh rì. Hai bên đường là đồng lúa, có vài miếng ruộng đã trổ đòng đòng. Chim bay lượn dập dìu. Gió mát thổi lồng lộng. Khi vào tới xóm bà con chạy ra mừng đón rối rít.Tú bước vào căn nhà cũ của mình. Khi bước vào tới ngạch cửa Tú thấy bên trông hoàn toàn xa lạ. Tú nhìn ra phía sau thì không thấy bác Dốn và chị Cưỡng nửa, hình như không còn thấy ai hết. Mồ hôi rịn đầy áo. Tú quay quắt nhìn mọi phía, chỉ còn trơ một mình. Tú bước lùi lại thì Tú không thể nào lùi được vì một màng lưới đan dầy ở khắp phía. Lựu đạn giăng mắc đầy trên từng mắt lưới. Chàng hốt hoảng chạy ra phía trước, cũng không được. Bây giờ màng lưới bao vây  khắp mọi nơi. Tú la cầu cứu “Ba má ơi! bác Dốn ơi!chị Cưỡng ơi!. Chàng vụt thoát chạy, nhưng lựu đạn mắc dính quanh người, tiếng nổ-ầm-ầm vang lên. Chàng thấy tê cứng rã rời. Máu trong người chàng tuôn ra, chàng kiệt quị. Chàng la hốt hoảng…Chị Cưỡng vén mùng hỏi:Tú ơi! Tú ơi! Làm gì mà la dữ vậy. Tú vụt ôm chầm lấy chị.Vì không dè trước, chị bị ngã chúi vào và nằm trong vòng tay của Tú. Chị Cưỡng ú ớ…Tú!..Tú ơi!..làm gì vậy?… Đừng!… Đừng!... Cưỡng mềm nhũng nằm yên trong vòng tay cứng ngắt của Tú. Một lúc lâu, chị thấy mình như muốn rả rời ra từng mãnh. Đêm trở đời xuống mau trong những giọt tình ấm áp rót vào thân.
                      *********************
          Sài  Gòn..Tháng..Năm 1971.
          Các bạn thương mến của tôi,
          Nhân vật Tú là một người nào đó lẫn lộn, chung đụng với chúng ta trong khung Bệnh viện. Tôi đã sống những ngày buồn vui với các anh trong T.Y.V Cộng hòa cũng với những thương tích do cuộc chiến nầy gây ra. Cái may mắn của tôi là vẫn còn vẹn toàn khi bước ra khỏi cổng Bệnh Viện. Từ ngày trở lại đơn vị đến nay, tôi có ý muốn ghi lại những hình ảnh kỹ niệm khắc sâu vào tâm khãm tôi trong những ngày ở trại Ngoại khoa 4, những người bạn khắp 4 vùng chiến thuật đã trở về đây với thương tích trên xe Hồng thập Tự hoặc trên từng chuyến trực thăng “Sơn màu tang trắng” nửa đêm khuya-hay bình minh sớm- từ mọi chiến trường về đây.Tôi e sợ mình không đủ ngòi bút để diễn tả cho đúng, cho đầy đủ ở cái khung của T.Y.V nầy. Tôi cố gắng ghi lại đây như một nỗi nhớ, một kỷ niệm, có dịp chúng ta đọc lại để nhớ nhau. Chúng ta cũng như Tú đều ao uớc có cuộc sống yên vui trong một đất nước thanh bình. Chúng ta ra đi chiến đấu cho cái ước vọng đó.Thế nhưng cho tới thân tàn ma dại mà vn chưa đong đầy bụm tay hạnh phúc.Chiến tranh càng lúc càng khóc liệt hơn và bọn người ăn trên,ngồi cao vẩn ung dung nhàn hạ.Chỉ có riêng chúng ta, những người trẻ bị cuốn hút vào chiến tranh. Chúng ta không có quyền chọn lựa!   
          Trong những ngày trốn cái không khí buồn bã trong bệnh viện. Chúng ta đi ra phố với chiếc xe lăn, với đôi nạng gổ, với khúc bột quấn trên thân, trên tay, trên chân. Chúng ta mới thấy được nỗi lạc loài khũng khiếp. Tôi còn nhớ đêm Noel-chúng ta lẩn lộn với đám người thành phố. Họ đi đứng hí hửng vô tâm. Chúng ta âm thầm đi bên họ như những hình nhân xa lạ. Hùng chửi thề, Lô hát nghêu ngao, Bùi ngồi trên xe lăng im lắng, Hữu khổ sở cò cò với cặp nạng khua lộp cộp. Tôi cố đẫy một lúc hai chiếc xe lăn. Có ai ngó ngàn đến chúng ta đâu!. Những ngày ở trong bệnh viện chúng ta cố vui đễ khỏa lấp cơn buồn.Những giọng ca của các em gái như Liên dịu dàng tha thiết, của Ánh mật ngọt êm đềm, của Thu bùi ngùi da diết, của…của những người em tinh thần cứ mỗi chúa nhựt vào hát đầu giường. Xin có lời cám ơn các em có trái tim tình người. Xin nhớ bạn bè đã có những ngày qua thương cãm vô cùng!.
                                                      ( Sài Gòn mùa hè năm 1971)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHỮNG ĐOẢN VĂN

BÓNG NHỚ

Anh Hai thường than thở: “Sao cứ mỗi khi Tết về là nhớ nhà quá chừng. Nhà ở đây là chốn quê hương ở Việt Nam. Một nơi mà anh Hai đã bỏ đi gần hơn 40 năm rồi. Hồi đó thời gian sao mà nó dài quá chừng. Năm năm học trường Quận. Năm năm lên trường Tỉnh. Mấy năm trên Sài Gòn. Anh thấy sao mà nhiều kỷ niệm quá…hình như đầy ấp theo những ngày tháng đó. Anh nhớ bạn bè, anh nhớ mái trường, lớp học. Anh nhớ từng con phố, ngỏ hẻm. Anh nhớ biết bao nhiêu chiều thứ Bảy, Chúa Nhật dạo phố Sài Gòn. Anh nhớ hương vị bò bía, nước mía Viển Đông…Anh nhớ chiều công viên ghế đá với tiếng thầm thì của người yêu… Anh nhớ từng cánh đồng và những con sông. Anh nhớ từng ngọn cỏ, cọng rau. Anh thèm những món ăn rất đạm bạc như cá kho tộ, tô canh chua tép với rau nhiếp, mò om. Anh nhớ tô bún nước lèo ngoài đầu chợ Tỉnh. Anh nhớ trái ổi, trái bần ở dưới quê…Anh nhớ từng khuôn mặt trong mái ấm gia đình…Anh nhớ đủ thứ hết. Mỗi lần nhớ là hình bóng những thứ đó cứ lởn vởn trong đầu óc, anh muốn bay về Việt Nam cho thật nhanh…

Rồi một lần anh Hai có dịp về lại Việt Nam. Máy bay quần một vòng từ độ thấp. Anh ngó Sài Gòn ở phía dưới, xe cộ chạy như những đàn kiến bò trên đường. Những ngôi nhà cao, thấp xen lẩn trong ánh nắng ban mai hồng hào. Chiếc máy bay đáp lướt trên đường băng. Anh nhìn bên ngoài còn những dãy rào thép gai và những hầm hố công sự của một thời chiến tranh vẫn còn đó. Bước ra khỏi cánh cửa máy bay.Trời nóng hừng hực. Anh bắt đầu lột áo bớt ra…cho đến khi chỉ còn cái áo ngắn tay mà sao vẫn còn thấy nóng oi cả người. Qua các cửa ải, anh bắt gặp nhiều gương mặt nhìn anh không mấy gì thân thiện. Gặp lại người thân. Anh có được mấy cái ôm thân thiết và nụ cười đầy nước mắt của những người nhà làm anh thấy ấm áp và xúc động vô cùng!

Chiếc xe 12 chổ ngồi mà người nhà mướn từ dưới tỉnh lên rước anh về, chạy trên đường như dồn đống xe hơi, xe gắn máy, cùng khói bụi mịt mù. Anh nghĩ “Chắc như vầy thì làm sao mà anh dám lái xe một mình đi trên các con đường nầy”. Đi qua các đường phố, anh cố nhìn cho kỷ, nhưng chẵng biết đâu là các con phố quen ngày xưa. Anh cứ hỏi hết đường nầy đến đường khác. Thằng em của anh

chỉ trỏ và nhắc các tên đường…nhưng anh không còn thấy bóng dáng nào của những con đường thân quen thuở xưa…

Về tới quê, nơi căn nhà của ba má anh thuở xưa thì vẫn còn nguyên như cũ, mọi thứ có hơi thay đổi đôi chút nhưng tuyệt nhiên nếu nhấm mắt lại anh cũng sẽ đi từ trước ra tới sau bếp…đều nầy làm anh xúc động đến rưng rưng hai giọt nước mắt…

Đứa em dâu nấu buổi cơm với mấy món mà thiếm biết anh rất thích thuở hơn 40 năm trước. Cơm nóng, canh nóng cộng với cái nóng của căn nhà. Anh vừa ăn vừa lau mồ hôi. Đứa em trai hỏi: Uống chút rượu nghe anh …Anh lắc đầu nói: Nóng thấy mồ uống gì zdô…

Suốt hơn gần 3 tuần lể trôi qua, anh Hai có dịp đi đây đi đó. Ở mọi nơi chốn đều đổi thay, không còn như anh tưởng. Anh ăn uống nhiều thứ…nhưng… thấy sao mà không ngon như lúc trước. Cả tô bún nước lèo thịt heo quay mà anh thích nhất cũng vậy…Anh nghĩ chắc tại ở bểnh mình ăn đầy đủ quá rồi đâm ngán …?

Ra Giêng, vào ngày đám giổ ba của anh. Bà con nội ngoại, chòm xóm tới nhà nhộn nhịp. Các bà mỗi người một việc cùng xắng tay nấu nướng ở sau nhà bếp. Cái không khí nồng ấm và hình bóng xưa cứ chạy suốt trong tâm tưởng. Anh hai ngồi nhớ một hồi rất lâu…Anh lấy tay quẹt nước mắt…

Ngày trở lại Mỹ. Chiếc máy bay đáp xuống phi trường. Anh ra khỏi khoang máy bay, bước vào nhà ga với không khí mát rượi. Anh Mỹ đen rà cái pass board xong, ngước lên mỉm cười và nói: Well come back USA…

Chiếc xe hơi thân quen của đứa con ra rước anh chạy trên xa lộ. Anh cảm thấy thoải mái và an toàn vô cùng. Anh Hai hơi đói bụng.Thằng con chở anh đến quán phở quen. Anh ăn ngon lành tô phở gần như cạn nước…

Đêm mới về lại căn nhà ở bên nầy, anh bị mất ngủ vì trái giờ, quen giấc gần hơn cả tháng ở Việt Nam. Anh nằm gát tay lên trán mơ màng…Anh chợt thấy một điều gì đó… hình như là …BÓNG NHỚ vừa hiện ra trong tâm hồn mình…!

H ÌNH NH Ư

Trong thời chiến tranh, anh luôn đối diện với biết bao hiễm nguy của chiến trường. Anh đã chứng kiến biết bao nhiêu đồng đội ngã xuống, biết bao nhiêu đối phương phơi xác trong các hố hầm, biết bao người dân chết oan uổn giữa hai lằn đạn. Anh đã mất đi cái thăng bằng trong cách sống. Anh thiếu vắng thời gian để có cái dịu dàng ấu yếm trong tình yêu, trừ một mối tình trong tuổi còn học trò. Bây giờ anh sống vội vả với những ngày nghĩ phép hoặc những buổi không đi hành quân. Tình yêu tinh khiết dường như không còn ở lại với anh. Anh đến với những cuộc gặp gở bất ngờ. Anh vồ dập với những cơn luyến ái trong hơi men. Lời nói yêu đương chỉ là cái lý giải để anh chiếm đoạt người tình hơn là là sự rung động thật sự của con tim. Từ đó anh vô tình đã để lại bao nhiêu hậu quả cho những người con gái đến với anh: “Nước mắt, sự đau khổ, có cả những hệ lụy trong tai nạn ái ân vội vã đó.” Chiến tranh đã đẩy cuộc đời trai trẻ của anh vào cơn lốc xoấy của cơn lửa táp, đạn vèo. Anh như bị đánh mất bản chất con người của anh trong cơn biến động đó.

Đến một lúc rồi anh cũng phải có vợ. Cưới vợ như là một định kiến của gia đình, thân tộc và định vị lứa đôi của cuộc sống đời thường.

Thời gian trôi nhanh…Anh nhìn về phía trước một đoạn đường lấp ló buổi chiều tàn. Đôi lúc anh quay đầu nhìn về quá khứ. Một thời gian dài hơn 40 làm vợ chồng đã trôi qua trong bao gian truân khốn khó...Bây giờ hai người đã già, không còn đi làm nữa. Con cái đã có gia đình và có cơ ngơi ổn định. Hai bóng già lặng lẻ sống bên nhau trong gia đình càng lúc càng tróng vắng…. Không biết có phải vì biến thái của tuổi già hay vì tính khí khác biệt của mỗi người mà sự va chạm thường xuyên có dịp khoấy lên..? Có một cái lực vô hình nào đó đẩy mỗi người mỗi ngày một xa. Cái xa không phải là khoảng cách mà xa trong tình cảm …? Suốt hơn 2 năm vợ chồng sống chung nhà, nhưng mỗi người mỗi phòng riêng.Sự gìao tiếp với nhau bề ngoài cũng rất bình thường vì bổn phận làm cha, làm mẹ với những đứa con, làm ông bà với những đứa cháu và vì sự giao tế bạn bè thân thích. Nói tóm lại, mỗi người ráng đóng vai trò cho thích hợp với mọi hoàn cảnh. Đến một ngày vợ anh bệnh nặng và tách hẳn về nhà đứa con gái để tiện viêc chăm sóc, thì sự xa cách bị đẩy xa thêm.Thỉnh thoảng anh về bên nhà con gái để giúp đưa vợ đi nhà thương hoặc làm một vài cử chỉ nặng về phần an ủi nghĩa tình, dù sao 2 người cũng có mấy chục năm chăn gối.

Mấy năm liền anh sống trong căn phòng đơn chiếc với những sinh hoạt tự túc châm lo cho mình và thằng con út còn đi học. Thời giờ còn lại, anh tìm quên trên bàn máy vi tính với những bạn ảo trên Net và trên Facebook. Những bài thơ, những bài văn lúc nầy được trải ra nhiều hơn. Khoảng lấp nầy cũng chỉ giới hạn chừng mực nào đó…còn lại nỗi cô đơn của tuổi xế chiều đang còn sức luyến ái, đôi lúc bậc dậy trong anh những cơn thèm khát xác thịt. Anh cũng chỉ dằn lòng lại thôi…

Nhiều lúc ngồi một mình, anh nhìn lên khoảng trời mịt mù sương khói, cánh chim nào đó bay trong trời giá lạnh, về một hướng rất xa xăm…. Quỷ thời gian của đời sống không còn bao nhiêu nữa là hết. Anh chợt thấy buồn buồn cho cuộc đời mình…Anh như cánh chim kia cứ bay đi thầm lặng đến cuối chân trời.Trong một khoảng riêng buồn…anh thấy có một nỗi hụt hẩn rất lớn trong tâm hồn… hình như tình yêu thực sự đã mất trong anh tự bao giờ…!?

CUỐI NĂM XỨ NGƯỜI

Do hiện tượng thời tiết, cả gần hơn tháng nay trời cứ mưa liên tục. Mưa không lớn. Mưa rỉ rả. Gió lạnh lùa ngang cây trơ cành bên ngoài. Bầu trời một màu xám mờ. Trời không băng giá, nhưng những cây loại nhiệt đới được đặt bên trong mái hiên nhà sau thì ủ rủ gần như trân mình, bầm lá, mặc dù được che bởi những mảnh nilong.

Buổi sáng ngồi uống cà phê, nhìn cây mai tứ quí nhú mầm nụ hoa. Tháng cuối năm âm lịch sắp hết. Ừ cuối năm rồi! Cuối năm của một khoảng đời gần hết. Cuối năm chập choạng với những ngày lặng lẻ. Cuối năm với cơn mưa lạnh nơi xứ người. Cuối năm tôi co ro như những cành cây nhiệt đới. Cuối năm chẵng có niềm vui nào trổi dậy trong hồn. Cuối năm lẩn thẩn với mớ nghĩ suy quanh quẩn rồi than thở một mình. Cuối năm xứ người sao buồn quá…!

LẨN THẨN 30

Vợ tôi nói: Năm nay tháng 12 thiếu, không có ngày 30 đâu nghe ông! Có đi đâu chơi nhớ về nhà để cúng cơm mời tổ tiên, ông bà, cha mẹ vào buổi trưa … Em chuẩn bị mâm ngủ quả để cúng mừng vui năm mới. Anh nhớ mua phong pháo đốt lúc Giao Thừa để xóa đẩy hết những đều không tốt của năm cũ. Nhớ là ngày 29 đó nghe! Tôi ừ ừ ...đàn bà có khác…! Cái gì mà phải nhắc nhở ....năm nào cũng vậy mà….! Nhưng tôi chợt nhớ lời bà xã … năm nay không có ngày 30 đó nghe. Ừ…Ừ… không khéo lại quên mất…Tôi thẩn thờ nhớ: Đêm 30 xưa nơi quê nhà trong thời thơ ấu bên mái gia đình êm ấm. Đêm 30 lê bước trên phố khuya với lòng trỉu nặng tình buồn. Đêm 30 nơi trại lính trong thời chiến tranh với rượu nát tàn canh. Đêm 30 nơi “Trại Cải Tạo” sau ngày 30 tháng Tư với nỗi buồn cho một ngày mai vô định! Đêm 30 nơi đất khách với cảm giác buồn nhớ quê hương. Một nửa cuộc đời nơi quê nhà với bao thăng trằm cay đắng. Một nửa cuộc đời bình lặng nơi đất khách quê người với bao nỗi trằn trọc, thao thức về đất nước quê nhàThoáng chốc đã hơn 70 năm làm người!

Năm nay đón Giao Thừa nhầm ngày 29…Tôi chợt thấy thiêu thiếu một cái gì đó…vì không có ngày 30 “Em đến thăm anh đêm 30…còn đêm nào buồn hơn đêm 30…Anh nói với người phu quét đường…Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em”.

SAU NGÀY 30 THÁNG TƯ

Tôi có người anh bà con, ba anh đi kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông hy sinh lúc Hiệp định Geneve vừa ký xong…1954 anh bị đưa ra Bắc lúc anh mới 12 tuổi. Anh thực sự nghĩ cái chết của ba anh bởi lòng yêu nước c ũng nh ư bao nhi êu ng ư ời tham gia kh áng chi ến th ời đ ó. Mấy chục năm ra Bắc, anh bị nhồi nhét lý tưởng Cộng Sản. Họ chèn ép nhân dân và thanh niên miền Bắc vào khung hận thù miền Nam và Đế Quốc Mỹ.Thật sự chủ nghĩa Tự Do của miền Nam và Đế Quốc Mỹ anh chưa bao giờ biết rỏ. Anh bị bưng bít sự thật và chỉ biết qua tuyên truyền là nhân dân miền Nam sống trong áp bức, đói rách, bần cùng…

Tôi được 11 tuổi, sống và lớn lên trong miền Nam. Tôi được đào tạo trong cái nôi Tự Do - Dân Chủ.Thực sự tôi không biết cái giá trị nầy ở mức độ cần thiết là bao nhiêu.Từ lúc nhỏ tôi nghe tuyên truyền chủ nghĩa Công sản là tam vô, là đôc ác, là bần cùng hóa nhân dân.Thực sự tôi không hiểu cái mức độ độc ác của Cộng sản là tới mức nào. Tôi rất mơ hồ khi ngồi trên băng ghế nhà trường, khi vào quân ngũ, cả khi buông súng đầu hàng khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh, Tư lệnh tối cao của quân đội hạ lệnh đầu hàng. Tôi và bạn bè đồng ngũ chỉ tức tối vì nghĩ rằng mình đâu dể bị thua bộ đội miền Bắc! Và thêm nữa…Cả miền Nam chắc cũng ngớ như tôi (Chỉ những người Bắc di cư 1954 là hiểu về Cộng Sản qua các cuộc đấu tố và cải cách ruộng đất lúc đó…)

Sau 30 tháng Tư năm 1975 người anh từ miền Bắc về Nam.Việc đầu tiên là anh quá ngỡ ngàn trước một Sài Gòn diểm lệ. Việc thứ hai là căn nhà của má anh là một căn nhà gạch mà anh phải thốt lên: Căn nhà thế nầy phải là cấp bộ Trưởng mới có được…rồi ngày tháng năm kế tiếp…tất cả đã làm anh từ băn khoăn và rồi đến lúc nói với tôi: Bọn mầy để miền Nam bị mất thật uổn…Bây giờ làm sao lấy lại được…?!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Dương Thu Hương ngồi bên lề đường úp mặt khóc vì một Sài Gòn phồn thịnh mà bị mất vào tay ‘Ăn Cướp”…

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 hàng hóa,vật liệu, lúa gạo miền Nam chở ra tiếp tế cho miền Bắc. Thanh niên nam nữ miền Bắc mơ vào Sài Gòn như mơ đi nước ngoài …

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 nhóm chóp bu lảnh đạo chia nhau làm giàu. Một loại Tư Bản Đỏ mà trong nước gọi là Nhóm Quyền Lợi...sắp bán đứng quê hương cho Tàu….!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 người dân cả nước mất hết Tự Do-Dân Chủ-Nhân quyền…!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975…mới đây nhất một nhà sữ học nổi tiếng trong nước nói đại ý như vầy: “Chế độ Cộng Sản là không tưởng…có đâu mà tiến tới”

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975: AI THẮNG AI….?

Sau gần mấy mươi năm anh em có dịp gặp lại. Anh nói với tôi: “Tao đã bị lừa mấy chục năm khi còn ở ngoài Bắc. Tao bị phản bội sau ngày 30 tháng Tư chính những đồng chí của tao…!.Tôi nói với anh: “Trước đây tôi cầm súng chống Cộng Sản mà chưa biết Cộng Sản thế nào...! Sau ngày 30 tháng Tư, tôi còn mơ hồ về họ..! Lúc tôi biết họ là ai thì đã muộn…Tôi đã bị đánh mât quê hương và bị sống xa tổ quốc…!

Tôi và anh ai buồn hơn ai?


Hoa ơi! Đừng kết trái

Khi mới dọn nhà về, phía sau là một khoảng đất trống.Vợ chồng chúng tôi phát họa một sân sau với vườn rau, cây trái.Vài năm sau, phía sau nhà có vườn rau và cây ăn trái, căn bản là các loại rau ăn hằng ngày: Rau râm, rau húng cây, rau húng lủi, rau dấp cá….Cây ăn trái như chanh, quit, cam, hồng, táo…Thấy đất còn trống chổ nào là tôi tha cây về trồng thêm.Vợ tôi cằn nhằn: “Ông trồng nhiều cây ăn trái, ráng thu dọn lá và mấy trái cây rớt…em lo không kham đâu a..?”. Nói là nói vậy nhưng tới mùa , cây nở hoa, kết trái thì vợ chồng tôi ra vườn sau đi nhìn từng nhánh, từng đóa hoa, chờ cho tới ngày cây đơm trái…nhìn những đọt rau thơm. Chúng tôi hái từng loại trái cây cùng ăn, cùng khen ngon ngọt…Chúng tôi có những cọng rau thơm cho một buổi cả nhà ăn bánh xèo…

Cách đây mấy tuần vợ tôi trở bịnh, lúc tôi còn ở Việt Nam và sắp tới ngày trở về.Tôi biết căn bịnh của vợ tôi trở lại lần nầy khá nghiêm trọng. Tuy nhiên chỉ còn đôi ba ngày nữa, tôi e khó đổi vé bay, nên nán lại…Chỉ việc nầy thôi làm vợ tôi giận hờn và trách cứ…!

Bây giờ vợ tôi phải điều trị lại và phải có sự châm sóc đặc biệt. Con gái tôi nói: “Thôi! Để má về ở với con, con sẽ xin nghĩ vài tháng để lo săn sóc và nấu ăn cho má. Nhà con thích hợp hơn. Khi má khoẻ lại sẽ về nhà ba…”

Mấy mươi năm chung sống. Mấy mươi năm gầy dựng gia đình, nuôi dạy con cái thành người lớn khôn và thành đạt nơi xứ người. Cho dù đời sống chung đụng vợ chồng sao tránh khỏi va chạm, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua…Cái nghĩa tình mấy chục năm gắn bó, làm sao mà dể bức rời.! Đến tuổi hưu, đáng lẻ chúng tôi cùng sống khoẻ mạnh bên nhau để hưởng những ngày còn lại của cuộc đời, cùng chia sẻ vui buồn trong cái quỷ thời gian còn lại không bao nhiêu. Cơn bịnh lần nầy sẽ làm sự sống của vợ tôi đau đớn và bất ổn…Sự kiện nầy làm tôi tan nát cõi lòng và ân hận.

Hôm nay ra vườn sau. Trời vào Xuân đã lâu. Các loại rau nức đất, trổi mình sau mùa lạnh giá, các loại cây ăn trái với chồi non xanh, hoa kết nụ…. Cây cam, cây quít, cây táo… hoa rụng cánh sắp kết trái. …Tôi đi thơ thẩn trong nỗi buồn buồn ray rức. Nhìn lên các cành cây, tôi nói thầm: Hoa ơi! đừng kết trái, năm nầy vắng người vợ thương yêu…Mùa nầy đâu có ai cùng chia sớt niềm vui…!!!

Mùa nầy hoa nở…thôi thành trái

Lòng ta rụng nát những niềm đau

Em ơi! vườn vắng em rồi đó

Hoa trái mùa nầy…Thôi tàn mau!

Cảm giác bềnh bồng

Mùa Đông đến. Khi tôi ngồi uống tách cà phê sáng ngoài hiên sau nhà, nhìn bầu trời như thấp xuống với những đám mây phù thủy vạn hình không rỏ nét. Những cành cây khô trong mù sương đứng trơ trơ, trân mình trong cơn lạnh. Tôi mường tượng một điều gì đó rất xa xăm. Tôi hơi hụt hẩn trong mỗi lần mò về quá khứ.

Bên nhà hàng xóm có tiếng vọng âm thanh của bài hát “Bài Thánh Ca Vô Cùng”. Tôi chợt nghĩ “Mùa Noel” sắp về…Và nhớ về mùa Noel năm xưa…

Trước đây còn đi làm ở một cửa hàng bách hóa. Cứ gần đến Noel là họ mắc dây đèn, trưng bày cây Noel và hàng hóa cho mùa lể gần cả tháng trước. Các món hàng được hứa hẹn là on sale trong ngày 24 tháng 12 và sau ngày 25 tháng 12. Ngày Lể coi như hiện diện ở tôi với chiếc mũ đỏ của ông già Noel để làm dậy lên cái không khí mua bán nhộn nhịp của cái thương hiệu Super Walmart.Từ ngày nghĩ việc về hưu, tôi chỉ lặng lẻ nơi căn nhà, ít muốn giao lưu với ai. Mỗi sáng ngồi uống café một mình. Mỗi ngày lên máy computer để xem tin tức, lướt qua Facebook và viết một vài câu thơ hoặc viết tiếp cái truyện còn dang dở.

Mỗi ngày tôi bềnh bồng với những mớ hoài ức khi nhìn ra ngoài trời mây. Mây cũng bềnh bồng theo từng ý nghĩ chập chùn gợi nhớ...

Khi ngồi trước khung máy. Tôi bềnh bồng với hình ảnh, chữ nghĩa. Tôi bềnh bồng với những nghĩ suy. Tôi theo với những dòng chữ. Tôi theo với ngón tay đưa đẩy con mouse. Tôi theo với cái kéo mủi tên lấp thêm mớ chữ vào bài viết. Ở đó là quá khứ. Ở đó, là hình ảnh của một thời rất xa xưa. Ở đó, là từng chập mây khói bay qua trong cảm giác và hiện rỏ qua dòng chữ. Có khi tôi chợt khóc. Có khi tôi chợt vui. Có khi tôi xao xuyến. Có khi tôi rạo rực. Có khi tôi ngộp thở...Tôi miên mang với từng ngón tay trên phím chữ. Ký ức dội về trong “Dòng Trôi Cuộc Đời”…Bản thảo viết về cuộc đời của tôi.

Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ ngưng tay. Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ hết còn suy nghĩ.Tôi thả thân nằm xuống, xuôi bỏ cuộc đời..! Lúc nầy hồn tôi sẽ bềnh bồng vào cõi hư vô. Hiện tại và quá khứ sẽ chỉ còn ở lại với những dòng chữ bềnh bồng…Không biết có đáng giá gì không? Nhưng ít ra tôi biết, tôi đã làm một điều mà tôi rất thích.Chỉ có vậy thôi…!

LÀM NGƯỜI CHÂN CHÍNH

Viết tặng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Tôi vốn người gốc miền Tây Nam Bộ,…Thuở nhỏ tôi mê văn Hồ Biểu Chánh, tôi khoái văn vẻ của ông Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, sau nầy là Hồ Trường An. Tôi thích cái mộc mạc của người miền Nam, đặc sệt những âm điệu dân dã qua các câu chuyện. Sau nầy khi lớn lên, tôi đọc nhiều tác phẫm của các nhà văn khắp xứ của miền Nam trước năm 1975. Nhưng cái cảm giác ăn sâu vào tâm não vẫn là những tác giã mà tôi thích như nói ở trên. Khi ra nước ngoài tôi mang theo một số tác phẫm còn ít oi sót lại trên kệ sách để ở nhà của ba má ở dưới quê, những trang sách với những chữ in bằng khung in chì trên những trang giấy in đã biến thành úa vàng…Tôi trân quí các quyển sách đó và lâu lâu đem ra đọc…Lúc đọc, tôi bắt nhớ nhiều thứ vụn vặt vào cái thời thanh niên mới lớn của mình, như khi ra nhà sách Khai Trí, đi chộn rộn vào những chiều thứ Bảy qua những kệ sách bên dưới cho tới tần lầu phía trên….Thời gian đó tôi tập sự viết văn, thay vì làm thơ như mọi khi…Tôi muốn viết theo phong cách của những nhà văn mà tôi thích. Tôi viết đâu đó vài cái truyện ngắn…Tôi đọc đi đọc lại thấy kỳ kỳ, rồi xé bỏ vì muốn bắt chước mà không được…văn nó phát ra từ nguồn cảm hứng và thể hiện bản chất tự nhiên của người đó, bắt chước làm gì, mà có được cái giãi gì đâu…?Nghĩ vậy tôi bỏ viết truyện luôn. Sau nầy tôi có viết lại nhưng là từ cách viết nhật ký, rồi quen dần viết truyện ngắn qua cách thể hiện như viết nhật ký…viết từ cuộc sống của tôi và tôi vui vẻ ở lại với dòng viết nầy…

Khi qua Mỹ, vì bận bịu với công ăn việc làm, tôi đã bỏ hết thú đọc sách và bỏ luôn chữ nghĩa. Tôi chỉ đọc thoáng qua mấy tờ báo biếu về tin tức và vài mẫu chuyện cũ in lại. Cho đến một hôm ra nhà sách, tôi cầm lên một quyển sách mỏng với tựa là “Cánh Đồng Bất Tận”. Anh chủ quán ngó về phía anh và nói:Anh mua quyển nầy về đọc đi, anh bạn của tôi mới về Việt Nam mang qua vài cuốn cho tôi bán thử.Vốn là người không ưa mấy quyển sách của các tác giả viết sau năm 1975 vì đa số viết theo chánh sách và chỉ đạo của nhà nước. Tôi tò mò lật đọc vài trang…Tôi lại đọc tiếp, một sự thu hút quá nhanh đến với tôi qua những dòng chữ đặc sệt miền Nam.Tôi ngưng đọc và thầm nghĩ phải mua quyển sách nầy về nhà đọc mới tận hưởng hết những cảm giác mà từ lâu rồi tôi mới bắt lại được…Từ đó tôi đâm mê giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư và viết thư về cho đứa cháu ở Sài Gòn tìm mua các quyển sách mà Nguyễn Ngọc Tư đã xuất bản gời qua bên nầy để đọc. Thời gian sau nầy khi bắt trớn viết lại, tôi hay làm thơ, viết văn và giao lưu trên Net…Cách đây hơn 2 năm, tôi bắt gặp Nguyễn Ngọc Tư trên Face Book và mò tìm thấy Bloggs của cô. Tôi liên kết vào trang Bloggs của Tư và từ đó tôi đọc bài viết của Tư trên Net. Biết cô còn trẻ, sinh sau năm 1975, tôi càng ái mộ cô về cách thể hiện tâm trạng của cô qua các bài viết ngắn, rất đổi đời thường, nhưng phản ảnh được cái xã hội của miền Nam sau năm 1975, nhất là các đề tài quanh quẩn nơi cô sinh sống, đất Cà Mau…Nơi chốn, sau 1975 tôi là một người tù”Cải Tạo”. Đầm mình trong những tháng ngày nơi vùng đất U Minh “Muổi kêu như sáo thổi-Đỉa lềnh như bánh canh”.Thời gian nầy tôi tiếp xúc được với người dân U Minh.Ban đầu họ còn xa cách và hận thù với những người của chế độc cũ, dần dà họ thân thiết và thật sự có cái nhìn khác về những người lính VNCH.Có một dịp ghé nhà một người dân., tôi thấy một em bé cở hơn 10 tuổi, ngồi cậm cuôi viết chữ I,T, một em lớn hơn chắc là chị của bé đang ngồi trả lời vài câu hỏi trong bài văn.Tôi thấy thương cho các em, tới tuổi nầy mới được cấp sách đến trường. Thấy tôi nhìn vào trang sách, em nói:Chú ơi! dùm góp ý với cháu để trả lời câu hỏi nầy “ Trong thời chiến tranh, một anh du kích giết được 4 tên lính ngụy, một anh khác giết thêm 5 tên lính ngụy…câu hỏi:Vậy ta đã giết tổng cộng được là bao nhiêu tên lính ngụy”.Tôi đọc câu hởi với sự khó chịu trong lòng mà không nói gì cả.Tôi buồn buồn cho một thế hệ con trẻ với cái lối dạy dổ lòng câm thù và nuôi lòng câm thù của nhà cầm quyền mới cho các cháu mà thực sự các cháu không biết.Thấy tôi ngần ngừ, mẹ của cháu nói:Mầy ráng làm đi đừng hỏi chú ấy…!

Thời gian trôi qua, bây giờ tôi đọc Nguyễn Ngọc Tư trên Net, tôi chợt nhớ về chuyện cũ, vào thời đó chắc cô cũng chỉ vài tuổi và cũng từng học như vậy khi đến tuổi đi học…Bây giờ cô lớn lên, cô thực sự thấy bao điều của vùng đất cô ở, những thay đổi quá ngao ngán của một xã hội “Ưu Việt”mà sản sinh ra những con người quá dã man, những con người cho là vĩ đại mà rất đốn hèn…Những bài viết của cô làm tôi say mê đọc. Với một gốc nhìn không quá bi quan về những mầm non trổi lên mạnh mẻ trong bùn đất, bật lớn tươi tắn dưới ánh mặt trời chân lý, làm một con người chân chính trong một xã hội đầy dẩy bất lương.


MÙI TẾT

Hồi còn nhỏ, ở quê nhà…Lúc đó tôi cỡ hơn 10 tuổi.Mỗi năm cứ vào gần hết tháng 12, gió từ cánh đồng phía tuốt ngoài ruộng, sau nhà thờ Tin Lành thổi về với mùi rơm rạ còn mới.Mùa lúa vừa gặt xong còn trơ những gốc rạ và những vũng nước bùn.Cái mùi nồng nồng, hăng hắt đưa vào hai cánh mũi của tôi.…Gió từ bờ sông phía bên kia nhà lồng chợ, cũng đưa thêm về cái man mát gay gây. Những cơn gió cuối năm đôi khi thốc mạnh làm cuộn lên những dề cát cuốn ụp vào người, tôi bụm hai tay che mắt. Lúc đó, tôi nôn nao trong lòng vì biết rằng Tết sắp về…Ba má sẽ sắm cho tôi bộ đồ mới.Tôi sẽ có một mớ tiền lì xì từ ba má và bà con thân thuộc…

Bọn trẻ con chúng tôi thì mừng rở, còn người lớn thì cứ than thở : “Mới đó mà Tết tới nữa rồi…!”. Người lớn thi tất bật gồng gánh, buôn bán quanh năm…công việc cứ bề bề ra, lo chưa xong thì Tết lại đến. Bọn con nít như chúng tôi thì lại mong Tết về…đâu biết gì mà lo…

Gần sát ngày Tết, mặc dù vẫn còn bận rộn với công việc buôn bán, má tôi cũng dành thời gian lo ngâm gạo, ngâm nếp, phơi lá chuối để gói bánh ích, bánh tét. Chưng xong bánh tét, bánh ít đem treo trên giàn, thì đến lo đánh bột làm bánh bông lan…

Lúc còn nhỏ, tôi thường quanh quẩn bên má để giúp má hoặc để má sai vặt. Là đứa con trai lớn trong nhà, tôi thấy má làm một mình cực quá nên không nở bỏ đi bắn cu li với bạn bè mà ở nhà phụ một tay với má. Nồi bánh Tét xôi ùn ục…má kêu tôi thêm củi, tôi đút từng thanh củi vào lò. Má mở nấp nồi thăm chừng. Khói bốc lên nhiều, má nghiêng đầu tránh hơi nước nóng, lấy cây đủa dài xốc trở. Mùi lá chuối xông lên nghe thơm phức. Gần ngày Tết hơn nữa, má cân bột, đếm trứng để làm bánh bông lan, thì tôi phụ đánh trứng, đánh bột. Công việc phụ trợ của tôi được má thưởng cho ăn mấy cái bánh thử nóng hổi hoặc mấy cái bánh bông lan quá lửa, hơi đen đen nhưng thơm phức mùi vanila.

Ba bớt đi giao hàng vì cận Tết, ngồi tính sổ sách cuối năm. Hai bên trước cửa nhà, ba đặt hai chậu bông cúc nở vàng.Trên bàn thờ thì ba chưng bông vạn thọ. Cả nhà tôi thơm mùi bánh, mùi hoa, mùi nhang.

Người lớn ai ai cũng xem ra bề bộn lo lắng, còn bọn trẻ chúng tôi thì thấp thõm đợi ngày 30 Tết được tắm rửa sớm hơn mọi ngày và được ba má để sẳn bộ đồ mới cho ngày mai mặc đi chơi.

Đêm 30 má lo sẳn một dĩa trái cây “Cầu, Dừa, Đủ, xoài(Xài)”và một bình cấm bông vạn thọ. Đúng 12 giờ khuya, phía bên nhà thờ Tin Lành giựt chuông tinh toong. Ngôi chùa Phật phía bên sông đánh trống, bổ chuông in ỏi. Má lâm râm khấn vái trước bàn thờ đặt trước sân. Ba đốt dây pháo đỏ treo trên nhánh cây trước nhà, châm ngòi nổ đì đùng…Cả xóm chợ đâu đâu cũng đì đùn tiếng pháo.Tụi con nít chạy hết nhà nầy qua nhà khác lượm pháo lép hoặc chưa nổ kip bỏ vào túi áo…Có đứa vô ý bỏ vô cái pháo còn đang cháy ngòi, pháo nổ làm cháy áo, phỏng bụng.

Mùi Tết, mùi nhớ quê hương. Mấy chục năm rồi xa xứ. Khi hết tháng 1 mùa Đông còn đang lạnh, máy sưởi trong nhà chạy suốt đêm ngày. Căn nhà trống hoe.Vợ chồng còn tất bậc với công việc ở hảng xưởng. Con cái thì đi học….Đến cận ngày Tết Ta thì mới chạy ra chợ mua bánh chưng bánh tét và vài chậu bông đem về chưng bàn thờ. Chuẩn bị nấu vài món ăn truyền thống như thịt kho, dưa giá…Mùi vị ngày Tết không còn …chỉ còn là nỗi hoài nhớ…Khi qua đêm trừ tịch, hai vợ chồng ngồi nhắc chuyện ngày xưa. Đêm 30 đi qua…Ngày mai lại tiếp tục đi làm, con cái đi học. Bàn thờ cúng cơm ông bà chỉ là cái bằng chứng để lại với khói nhang thơm nhẹ…Mấy đứa nhỏ còn cằn nhằn “Ba má đốt nhang nên mở cửa… Tụi nhỏ sợ khói nhang làm ngộp thở và hôi nhà…Kêu tụi nó khấn vái trước bà thờ ông bà thì tụi nó chỉ đốt một cây nhang, chấp tay xá xá cho qua việc. Có khi chúng đi làm, đi học thì chỉ hai vợ chồng dọn bàn cúng lạy…mà cũng chỉ nán lại trước bàn thờ vài phút rồi đi lo công việc khác.

Người lớn thì cố giữ lại truyền thống Tết được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu.Còn tụi nhỏ thì…khó quá! Tôi đâm nghĩ “Khi đám già cuốn gói về đất hết thì chắc tụi nó cũng quên cái vụ Tết nhứt nầy “Thật ra thì tụi nhỏ đâu có cái mùi Tết như mình có hồi từ thuở nhỏ đế mà nhớ…!

HỐI HẢ CUỐI ĐỜI

Trong đời người có biết bao nhiêu lần hối hả. Có những hối hả lo toan, nếu mình chưa hoàn tất với cái mức quy định của công việc hoặc thời gian thì mình có thể làm tiếp sau đó.Tuy nhiên có một sự hối hả mà mình phải hoàn tất, nếu không thì mình sẽ không có cơ hội để hoàn tất. Đó là sự hối hả của những ngày gần cuối cuộc đời. Quỹ thời gian của cuộc sống không còn bao nhiêu.Sự bất chợt rủi ro của tuổi già có khi vô chừng, khó đoán, cho nên sự hối hả như một điều thúc đẩy người tôi cố nghĩ, cố lọc lựa những gì mình cần phải hoàn tất trong khi có thể làm được, còn chừa một khoảng rủi ro nào đó mà thần chết giáng xuống mình bất thình lình.Cái quan trọng mà tôi phải làm trước đó là món nợ văn chương vướng lụy mấy chục năm qua, từ lúc biết làm thơ, viết nhật ký của tuổi 15, cho đến nay tóc đã nghiêng màu trắng. Cuộc bể dâu đã làm cuộc đời tôi nổi trôi thăng trầm. Cùng với thăng trầm đó là những dòng văn, những dòng thơ được trải ra trên giấy năm xưa và trên dòng Net ngày nay.

Tôi muốn nó ở lại đời khi tôi ra đi.Tôi muốn nó ở lại với thân quyến, bạn bè và theo linh hồn tôi về tận miền miên viển nào đó.

Tôi viết vì tôi, vì người thân và bạn bè.Tôi không ham muốn làm nhà văn, nhà thơ.

Tôi là một người muốn trải lòng ra để giải tỏa nỗi lòng cho chính tôi và chia sẻ với những người thương mến tôi bằng chữ nghĩa.Còn lại những thứ khác, nếu tôi chưa làm hết thì có người khác làm thế cho tôi.

Tôi muốn chính tôi phải hoàn tất những dòng chữ mà tôi đã viết, thành từng tập.

Tôi muốn được nhìn thấy nó đã thành hình.

Chỉ duy nhất có điều nầy làm tôi hối hả để hoàn tất trước lúc chia tay với đời sống nầy.

TÌNH NET

Ngày xửa ngày xưa, lúc còn mài đủn quần trong lớp học. Lúc đó khi yêu nhau người ta thường viết thư trao đổi tình yêu qua trang giấy học trò, kha khá hơn nữa là những mảnh giấy màu mõng. Thông thường rất kín đáo trao cho nhau bằng tay chứ ít khi gởi bằng thư từ, vì sợ bị lộ Khi ba má bắt được thư thì có mà bị tẩm quất hay la rầy một trận: “Còn nhỏ mà không lo học hành…ở đó mà yêu…Từ nay phải chấm dứt nghe con….phải lo học hành trước đã…” nghĩa là cha mẹ có quyền cấm con cái đi vào đường yêu đương và dỉ nhiên mấy tờ giấy viết sẽ bị xé nát và cho vào sọt rác. Tình yêu trai gái thuở đó cũng thường chỉ quanh quẩn trong xóm làng, quẩn quanh nơi phố chợ, ít khi xa ngàn dậm…? Với đà phát triển nhanh của khoa học qua các bàn máy vi tính và qua hệ thống Net, sư liên kết của con người vượt xa khoảng cách, vượt biển trời bao la để tìm đến nhau qua E-mail, tin nhắn. Các bậc cha mẹ ngày nay không còn kiểm soát con cái theo cái kiểu ngày xưa nữa, mà có kiểm soát cũng không được, đành phải chấp nhận một cách miển cưởng, bó tay, đành chịu…!

Các trang nối kết như hệ thống của các nhóm trên yahoo.com các trang mạng liên kết như facebook…đã làm mọi người trên khắp thế giới gần nhau hơn, thư từ, tin nhắn, hình ảnh chỉ chuyển trong tích tắt….Từ đó hình thành những mối tình ảo, vượt không gian mà yêu nhau. Sự trao đổi đôi lúc màu mè công chúng (public) sau đó chuyển qua nơi kín đáo hơn bằng Chát (Messenger). Có nhiều mối tình Net đến với nhau dịu dàng trên Net và rồi sau đó hẹn hò gặp mặt nhau, đôi khi hợp ý thì tiến tới hôn nhân thật sự, cũng có những quái quâm vở khóc vở cười khi đối diện với sự thật phủ phàng, hình em, anh trên Net thì quá đẹp…hoặc trí tưởng tượng về người yêu quá toàn vẹn, khi gặp nhau bị vở mộng…Chẳng hạng nàng hoặc chàng đi đứng cà thọt, ăn nói thì ấp a ấp úng ngọng nghệu…Có những mối tình chỉ cốt bẹo kéo nhau để cho qua buổi trng vắng của những ông bà ở tuổi về hưu, có nhiều thời giờ ngồi trước máy vi tính chát để đốt thời gian. Cũng có những cảnh ông bà đang sống ung dung với nhau mà lại ngoại tình trên Net. Ông một cái máy, bà một cái máy mặc tình mà chát yêu, chát quái. Mỗi người tìm thời gian thích hợp mà chát để khỏi bị lụy phiền, để khỏi bị khám phá…!Tân tiến hơn, mỗi người có một cái máy điện thoại thông minh…lúc nầy mặc tình mà liên kết, ở mọi nơi, ở mọi lúc, tha hồ ông chát, bà chát, con chát, rể chát, dâu chát…mọi người đều có cơ hôi ẩn náo riêng tư mà liên kết với nhau.

Tình yêu trên Net lại hình thành nhiều tình huống khác nhau và từ đó nở rộ ra các nhà thơ, nhà văn bất đắc dỉ với những bài thơ, bài văn gạ trao tình yêu vô cùng lãng mạng, đôi khi vô cùng Sến hằng ngày dán lên các trang mạng. Xin mở ngoặt phân ra các bậc đàn anh, các bạn văn, thi sĩ thực thụ dán lên nhiều bài viết rất giá trị để trao đổi với nhau. Nhờ đó tôi hân hạnh gặp được nhiềc bậc đàn anh, đàn chị v à bạn bè mà tôi rất quý mến. Cũng từ trên Net, có nhiền vụ lừa đão tình yêu….phờ phỉnh tình yêu xảy ra…tình ảo mà….có ai kiểm tra được đâu?! Mà thực ra có chết thằng Tây nào đâu với mấy dấu hiệu trái tim gởi cho nhau kèm qua các lời nói âu yếm…sống động hơn là những con vật nhả ra hằng hà sa số trái tim yêu qua ảnh gif. Có mất đồng nào khi gởi những bó hoa hoặc quà cáp trên Net. Ôi thời đại tân tiến! Ôi thời đại tình Net, tình Ảo… Thôi thì cứ phất phơ vào Net để đốt thời gian nhàn hạ. Mua vui cũng được một vài trống canh!Phải không các bạn?


MỘT MÌNH

Từ ngày bà xã tui xách gói đi ngủ riêng tới giờ …tôi cảm thấy mình thoải mái hơn. Chẵng là vì, khi lớn tuổi lúc trở trời trở gió mình mẩy ê ẫm, xương cốt hết đau khớp nầy, chạy qua khớp khác. Đêm ngủ chung giường với bà xã nhiều khi lấy tay đấm chồ nầy, bóp chổ khác trên cơ thể mình, hoặc xoay trở lặn lộn cho đở mõi…Bà xã tức mình càu nhàu “Cái ông nầy làm gì mà rục rịch sáng đêm làm sao người ta ngủ được!”.Tránh lời rên rỉ của bà xã…tôi cố gắng trân mình chịu đau hoặc trở mình nhè nhẹ. Nhưng làm sao khỏi nhúc nhích đôi chút được…!Mặc dù tôi đã mua chiếc nệm theo quảng cáo: Ông nhúc nhich–bà không bị nhúc nhích. Bà xã của tôi vẫn phàn nàn vì sự lăn trở của tôi.Tôi hơi quạu bởi vì mình cố gắng chịu đựng cái thân thể bất tuân như ý rồi mà còn bị cằn nhằn hoài. Tôi nói: “Tại bà khó ngủ chứ đâu phải tại tôi…hồi nẫm đôi khi ngủ say sưa bà còn ngáy khò kho.Tui có nói gì bà đâu? Vợ tôi nói: Hồi đó khác, bi giờ nầy khác…!Tôi chịu lép vế nằm làm thinh.

Ban đêm vì không ngủ được tôi cứ ngồi bật dậy đi tiểu…cái gì quá kỳ cục, cứ đi tiểu vừa xong vào giường nằm một chút lại muốn mắc tiểu nữa….Bà xã cầu nhàu “Cứ leo lên, bước xuống giường và dội cầu hoài làm sao ai mà ngủ cho được…!Đi khám bác sĩ đi.Coi chừng bị ung thư tuyến tiền liệt đó.(Chuyện nầy khỏi lo vì tôi đi khám rồi…tại uống nước nhiều-khi ngủ hỏng được thường là như vậy…).

Chưa kể nhiều khi xem một cái phim hay, mình muốn coi cho hết, bã rên rỉ: Làm ơn tắt cái TV cho người ta ngủ...ngày mai còn phải đi làm.Tôi cụt hứng tắt cái TV.

Còn nữa, tôi hay hứng tình với nàng thơ. Khi một ý thơ nào đó hay hay hiện ra trong đầu, tôi bậc cái máy vi tính lên và ngồi hằng giờ để làm thơ hoặc viết truyện… luôn thể đọc mail của bạn bè gởi cho mình và trả lời, đôi lúc đọc nhiều bài thơ hoặc bài viết hay mình góp ý. Vợ tôi lại than thở tiếp vì mấy tiếng cộc cạch của bàn phím khi tôi gỏ chữ.

Nhiều lúc bà xã tôi lại tò mò xem tôi làm cái gì trên máy vi tính mà ngày nào cũng mở máy và ngồi ngâm rất lâu. Vợ tôi nghe câu chuyện mấy lão niên cứ lên mạng chát chiếc với mấy em “Cỏ Non” ở Việt Nam…lâu ngày đâm mê mệt và hẹn hò kiếm chuyện về bên đó mà du dương.

Có một ông sau khi đi về Việt Nam nhiều chuyến, khi trở lại Mỹ tuyên bố ly dị bà vợ tắm mẵm ở bên nầy. Dĩ nhiên của cải do vợ chồng gầy dựng bấy lâu bị chia tứ tán. Con cái lớn khuyên cha, nhưng vì quá mê “Cỏ Non” ở Việt Nam rồi nên nhất quyết không nghe ai hết. Chàng già về xứ Việt làm đám cưới linh đình và bảo lảnh em sang Mỹ. Bà vợ mất một căn chung cư… để ông chồng đem con vợ nhí sang hú hí. Buồn quá bà đâm ra điên điên bởi lẻ ông chồng của bà rất hiền lành, sống mấy chục năm ông luôn là người chồng gương mẫu.Hai vợ chồng mở tiệm Nail &Tóc, bà bận rộn với việc làm, ông tận tụy giúp bà từ việc lớn đến việc nhỏ.Hai người chí thú lo làm ăn nên mua được một căn nhà và sau đó là một dãy chung cư gồm 10 căn hộ.Suốt ngày ông cứ quanh quẩn ở tiệm giúp bà điều hành công việc.Tối đến ông làm sổ sách. Bà rất thương yêu chồng và tin chồng hết mực…nhưng ở đời ai đâu có ngờ! Người lù đù “Vát lu mà chạy” ít nói như ông chồng bà lại giở chứng hồi nào mà bà không biết được.Chừng đổ bể ra sau mấy chuyến về thăm bà mẹ già của ỗng còn ở Việt Nam…Ông đòi ly dị và chia của.Bà giử căn nhà và cái tiệm, còn ông thì giử cái chung cư.Bà vô cùng đau khổ vì sự bất ngờ nầy nên đâm ra như người mất trí. Bà tức khí vì mất ông chồng thương yêu rất mực của bà“ Đồ con “quỉ cái cướp chồng bà còn nhởn nhơ hưởng phần mồ hôi nước mắt của bà…trước mắt bà!”.

Tôi không đồng tình với mấy việc như vây.Vợ chồng tay dắt, tay níu con thơ với hai bàn tay trắng sang đây.Vợ chồng xây dựng gia đình từ con số không.Tính từ thời gian bước đầu đến khi cơ ngơi khá ổn định, con cái học hành đỗ đạt và có việc làm, đó là công lao lặng lôi thân cò của vợ chồng tôi trên đất mới nầy.Với tôi…tôi rất trân quý những ân tình của vợ tôi đã khổ cực từ lúc đời tôi đầy gian nan khi còn trong nước và đã góp tay khó nhọc cùng tôi từng năm tháng xây dựng tổ ấm nơi xứ người nầy. Ai mà lại vô cảm-vô tâm phụ rảy ân tình nầy.Tuy nhiên “Ớt nào là ớt không cay- vợ nào là vợ chẳng hay ghen chồng” Với sự nghi ngờ và có thể cũng để đề phòng trước vì thấy tôi sao cứ tối ngày lên mạng hoài nhiều lần vợ tôi nhìn vào khung màn ảnh máy vi tính phía sau lưng tôi để dò xét.Tôi nghĩ chắc mẫm là bà xã tôi nghi ngờ tôi chát chiếc với ai đó, có bao giờ bà xã tôi tò mò để xem văn vẽ của tôi đâu!.Chưa bao giờ thơ văn của tôi lọt vào đôi mắt của nàng…! Mặc tôi mơ mơ, màng màng những chuyện năm xửa năm xưa với nhiều hồi tưởng qua những dòng thơ tình sướt mướt hay tưởng tượng một câu chuyện tình lâm ly nào đó để kết thành văn vẻ đậm tình éo le–lâm ly hoặc đổ vỡ.Tôi đoan chắc vợ tôi chẳng thèm ngó ngàng đến thơ văn của tôi cho dù có đem quyển thơ hay quyển văn của tôi đặt trước mặt.Nhưng từ ngày bà xã tôi giao lưu với bạn bè trong trang Web Trung Học Chợ Lách…tôi có bài vỡ tham gia.Bạn bè của vợ tôi đọc bài của tôi không biết khen thiệt hay chỉ động viên…bà xã cũng dừng mắt đọc thơ văn của tôi cho biết sự tình….Cám ơn trang Web vì tôi có một đọc giã bất đắc dĩ:VỢ TÔI!…!

Người ta thường nói: Sự thành công của người chồng luôn luôn có bóng dáng của người vợ hổ trợ. Tôi nói trại ra: “Sự thành công của các người cầm viết (Văn-Thơ-nhạc-kịch ) phía sau luôn luôn có bóng dáng của các người vợ thông cảm và chịu đựng”. Trong một cuộc phỏng vấn, vợ của nhạc sĩ Anh Bằng có nói: Ổng đi đâu thì đi và làm cái gì thì làm…khi về nhà ổng là của tôi là được rồi…”.Riêng bà xã tôi thì nói: Ông làm cái gì thì làm…nếu lựng bựng gì đó với ai… hể tôi biết được là tôi cho ông đi tàu suốt.Hồi trẻ mình rơi có người hứng lấy còn bây giờ già khú đế rồi ai mà lượm…!Lời phán hơi nặng ký như vậy…có ngán không quý bạn…? Tôi ngán lắm đó…cho nên néu lỡ ăn vụn thì chùi miệng liền hà!

Từ lâu tôi có thói quen …khi đang say sưa với những dòng thơ hoặc lời văn đang hiện ra trong đầu rồi gỏ những dòng chữ hiện ra trên màn ảnh mà bị ai đó dòm ngó là tôi mất hứng và bị khựng lại…Một hôm không dằn được cơn bực bội .Tôi nói với vợ tôi: “Từ nay tôi muốn bà để tôi yên khi ngồi vào bàn máy vi tính làm việc nghe...! Bà xã giận bỏ đi một nước và nói: Ừ tôi đi ngủ riêng…để ông thanh thơi muốn làm gì thì làm…! Và vợ tôi thu dọn ra phòng riêng từ hôm đó.

Chúng tôi ngủ cách ly nhưng sinh hoạt gia đình cũng đều hòa. Mấy đứa con biết lý do má tụi nó ra riêng không phải vì chúng tôi giận hờn nhau mà vì lý do tôi lớn tuổi khó ngủ cứ cựa quậy lung tung làm má tụi nó ngủ hỏng được…!

Mấy ngày đầu ngủ một mình, tôi thấy thiếu thiếu hơi hướm ba xã…vì mấy chục năm ngủ chung giường với nhau rồi chớ bộ …!“Thia thia quen chậu-Vợ chồng quen hơi” mà. Nhiều đêm giật mình mở mắt nhìn bên cạnh, thiếu bà xã cũng thấy lạnh lẻo cõi lòng “Ghe lui còn để dấu dằm-Người thương đi vắng dấu nằm còn đây”.

Mấy lúc sau nầy bà xã tôi hay đi chùa nghe các thầy thuyết pháp. Hồi trước ăn chay một tháng 4 ngày…dần dà ăn gần suốt tháng. Bà xã tôi khoe:Từ ngày ăn chay đến giờ thấy trong người được khoẻ hơn: đường, mỡ, trong máu giãm, ấp xuất huyết giãm.Thế là vợ tôi gần như trường chay. Phòng của vợ tôi gần như là tịnh thất…

Vợ tôi ăn chay, đọc kinh, đi chùa và ngủ chay. Dỉ nhiên tôi cũng đành ngủ chay dài dài…!Tôi tập ăn chay để giãm nhiệt cơ thể cũng chưa đến nỗi của tôi…hơi ngặt chứ bộ…!Nhưng lâu dần cũng quen!

Một mình trong căn phòng rộng, trên chiếc giường King-size(Giường lớn dành cho vợ chồng ngủ chung) tôi thoải mái tự tung tự tác: Đấm lưng, đấm bóp chân tay thả ga, đôi lúc ngồi lên nhấm mắt tọa thiền hoặc uốn éo cho phẻ gân cốt ...không sợ ai rầy rà. Nhiều phim hay cứ thoải mái xem cho tới hết…Bật máy vi tính cộc cạch thỏa thích để làm thơ tình, viết truyện yêu đương… Khi ngồi vào bàn cầu ...đọc báo, đọc thơ cũng không ai hối thúc.(Cái thú đọc mọi văn tự mà tôi vớ được khi vào nhà vệ sinh là một thói quen của tôi khó mà bỏ được). Kể ra Một Mình đâu phải cô đơn...!

Huỳnh Tâm Hoài

Cali đầu năm dương lịch 2014