Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Gã bất cần



  BẤT CẦN
                                                 
          Trước khi làm bản tự khai, tên quản giáo ngồi một chân để thổng, một chân chỏi trên mặt ghế. Hắn ngồi bật ngửa hút thuốc.Vài đám du kích mặt non choẹt mang vũ khí đủ loại đứng vòng ngoài phòng họp của trường trung học. Hắn từ từ đứng lên nói: Tất cả hồ sơ các anh chúng tôi đã nắm. Tội các anh theo Mỹ Ngụy đánh phá cách mạng là tội chết, nhưng nhờ lượng khoan hồng của nhà nước cách mạng các anh được tha và cho tập trung về đây để học tập chánh sách của nhà nước một thời gian ngắn rồi cho về với gia đình, làm công dân tốt của một nước Việt Nam dưới sự lảnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa và đảng Việt Nam quang vinh…..Hắn nói tràn giang đại hải như con vẹt, cuối cùng hắn gằn giọng: Các anh phải thật thà khai báo, các không qua mặt được chúng tôi, nhớ đó… Mọi người được cấp hai mảnh giấy trắng làm tờ khai lý lịch.
         Trong bản tự khai gả ghi sơ sài tên họ cấp bực, công vụ và địa chỉ tận miền Trung. Tư Cần trong ban quản giáo trại tù đọc tờ khai của gã và bắt gã làm lại có hơn ba lần, lần nào gã cũng khai y như cũ. Tư Cần gọi gã lên la lối:
             - Anh chưa thành khẩn khai báo. Các anh khác khai đầy đủ còn riêng anh cứ còn dấu diếm. Tội không khai báo thành khẩn là tôi nặng anh biết không? Gã thản nhiên trả lời:
              - Thưa anh, tôi đã khai đủ.
              - Anh không có thân nhân họ hàng?
              - Dạ đúng.
              - Ai sinh anh ra anh, anh không biết nửa hả!
              - Tôi không biết, hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện nên không biết cha mẹ là ai. Tư Cần ngó anh luờm lườm và hỏi gằn:

              - Còn hoạt động đánh phá cách mạng anh ghi có bao nhiêu, đâu đủ!
      Gã nhỏ nhẹ:
              - Dạ đủ lắm rồi cán bộ. Cán bộ không tin cứ coi lại hồ sơ mà can bộ có….
            Tư Cần bực tức, nhưng không biết phải làm gì với gã. Tư Cần đưa gã miếng giấy trắng khác và nói: Anh về khai lại cho đủ hơn, chưa thành khẩn…anh hiểu chưa???.Gã mang giấy về và vẫn khai y như cũ. Tư Cần ra lệnh nhốt gã vào phòng tối hai tuần. Hôm tên du kích mở cửa phòng giam đặc biệt, tống anh về lại phòng, người anh xanh xao và hôi thúi. Mọi người dìu anh về chổ nằm. Anh em trong phòng bịt mũi vì chịu không nổi mùi hôi thúi bốc ra từ cơ thể của anh. Suốt hai tuần ở trong phòng tối gã ăn, ỉa tại chổ. Với mỗi ngày một lon nước trong phòng tối om làm gì để có cái sạch sẽ. Hồi ở ngoài phòng anh cũng là chúa nhát tắm gội rồi. Thế là vài ba anh đề nghị góp nước và lót miếng nylon ra giữa phòng, mời kéo gã ngồi vào để lau chùi, kỳ cọ cho gã hết mùi hôi. Gần ba tháng trong phòng giam ai ai cũng có người thân gởi đồ ăn vào bằng cách nầy hay cách khác, riêng gã thì không thấy ai gởi. Anh em hỏi gã thì gã cười mĩm nói: Tôi con bà phước làm gì có ai gởi. Gã ít khi quan đến sinh hoạt trong phòng, ai kêu làm gì thì làm không thì nằm phì phà hút thuốc một mình, không tâm sự với ai, ai hỏi gã điều gì thì gã nói cái kiểu trớt quớt không đâu vào đâu. Ngày tháng bị giam tù không biết rồi sẽ ra sao? Mọi người buồn bã ra mặt, riêng gã thì không ai đoán được gã có buồn hay không. Gã sống lè phè với cơm phát, nước đong. Anh em thấy vậy nên chia xẻ với gã khi có đồ ăn gởi vào. Gã không bao giờ từ chối món gì cả. Ai cho cái gì thì ăn cái đó, ăn không hết thì dồn hết vào lon Guigoz để dành ăn từ từ. Anh em thương gã vì biết gã chẵng có ai thăm nuôi, nhưng tin vào lời khai của gã thì chắc không ai tin, hoặc có tin cũng ở một giới hạng nào đó. Riêng về ban quản giáo thì thôi hạch hỏi gã từ khi gã từ hầm tối ra. Chắc họ có điều tra, nhưng không moi được gì thêm. Hồ sơ quân bạ ở tỉnh Chương Thiện bị đốt hết. Họ cứ dằn mặt: Các anh phải khai thật thà, hồ sơ của các anh chúng tôi nắm hết cả, đừng hòng khai gian! Thế nhưng cho đến khi chuyển trại lên Cần Thơ, mặc dù cũng qua nhiều lần làm lại tờ tự khai, gã cũng chỉ viết có bấy nhiêu mà chẵng thấy họ hạch hỏi gì thêm.
             Cũng như còn ở trại giam tỉnh, ở đây gã cũng lè phè, lếch thết. Mọi người được vợ con tiếp tế thăm nuôi, còn gã thì vẫn mồ côi như cũ.Gã tự đi “Cải hoạt” với cái bẩy chuột tự sáng chế.Đó là chiếc cần bằng tre với sợi dây nhợ. Gã đánh bắt chuột cống trong trại, vì là chuột chui nhủi trong các hang dơ dái nên lông lá bị rụng, da trầy trụi lỡ lói. Khi bắt được con nào gã cắt đầu, lột da, bỏ bộ ruột, đem nướng hoặc kho mặn. Anh em thấy gã ăn mà thương hại và thường có ý ngăn cản vì sợ gã bị bệnh. Mọi người chia phần ăn cho gã và khuyên gã nên ngưng ăn chuột, nhưng gã vẫn tiếp tục bẩy chuột. Nhiều đêm cái bẩy sập đưa cần không? Gã tức lắm và cho là có người nào đó ăn chận, bắt lén. Để phát giác khi bẩy sập. Gã cột thêm mấy miếng nhôm để khi bẩy được chuột, chuột giẩy dụa sẽ kêu leng keng. Có hôm vừa mỗ bụng chuột xong, gã cười khà khà: Ê bắt được chuột có chửa, ăn chuột hà nàm bổ lắm. Gã lôi ra từng con chuột con trong bọc bỏ vào miệng ăn ngon lành, mấy anh bạn trong phòng bụm miệng, nôn ói.Chẵng ai cản được gã nên cứ để gã tùy tiện. Anh em đồn đại: Tay nầy đúng là một tên khật khùng…! Cán bộ trại gọi gã lên hỏi:
          -  Chúng tôi lo cho các anh thức ăn đầy đủ, sao anh lại ăn chuột dơ bẩn như thế?
Gã cười cười trả lời:
-          Thưa cán bộ thêm thịt…
-          Thế chúng tôi cung cấp không có thịt cho anh à?
-          Dạ không có.
-          Cá nục…rau cãi, nước mấm đấy.
-          Dạ thịt cá đâu phải thịt heo.
-          Anh còn muốn ăn thịt heo… tư sản nhỉ?
-          Dạ ăn để sống mà cán bộ.
-          Thế chúng tôi có để cho các anh chết à….?
    Gã cúi đầu ngưng nói.Tên cán bộ tức khí:
-          Thôi anh về đi…cấm không cho anh bắt chuột. Gã làm thinh quay đầu đi
ra khỏi phòng.
     Gã cùng đoàn quân xuôi Nam vào tuốt tận vùng sâu rừng U Minh, nơi mật khu cũ của mặt trận trá hình “Mặt trận giãi phóng miền Nam” dựng trại, phát hoang làm ruộng. Gã lè phè như bè trôi sông. Hồi mới tới U Minh mỗi tốp 10 người ngủ trong lều nilon, có đêm gió tốc mạnh mọi người thức dậy lo tu sửa căng lều lại. Gã vẫn nằm yên ngủ ngáy kho kho. Anh em cằn nhằn quá. Gã phân trần:
           -    Ngủ quên mà, sao không kêu tui.
      Ít lâu sau gã xin được một miếng nilon nhỏ che đủ một bên gần kế lều chung, để khi mưa gió, khỏi lo anh em cầu nhầu. Có hôm mọi người thấy gã ngủ với nửa người ướt nhem vì miếng vải che bị tróc một phần. Mặc kệ! Gã ngủ với cơn ngáy đều đều!!!
           
        Trong lao động hằng ngày hể gã đi chung với nhóm nào là các bạn trong nhóm nhăn mặt cười. Thế nào cũng phải gánh thêm để cho xong việc. Gã làm từ từ, đôi lúc nửa chừng than mệt, lên bờ ngồi vấn thuốc rê hút thở phì phèo. Anh em biết gã như vậy nên riết rồi cũng để mặc gã làm gì thì làm. Ai phàn nàn, nặng nhẹ, gã cười trừ: Làm gì mà dử vậy ông? Gã luôn từ tốn, hề hà không giận ai cho dù có bị nặng nhẹ, nên chẳng ai ghét gã được…?
        Công việc đi vào rừng sâu chặt cây và bè về để dựng trại thì được phân theo đầu người. Mỗi người mang về ba cây đước hoặc cây vẹt. Mỗi nhóm 10 người của ai nấy lo. Cây đốn xong dùng giây chạy cột lại và thả xuống lạch nước kéo về. Anh em đốn cây theo tiêu chuẩn, cây to, dài suông thỏng, còn gã thì chả cần miển có ba cây là được. Gã thả rề rề dưới nước và luôn luôn là người về rất trể. Có hôm anh em trong nhóm phải quay lại kéo phụ với gã về chổ tập trung. Có một lần vì không bó chặt, lúc kéo về bó cây bị sút ra, gã rị mọ cột lại, nhưng vì nước lớn cây trôi theo dòng chảy. Gã giử cây nầy thì cây khác bị trôi đi, phần vì không biết lội nên cứ loay quay mãi mà không gom được cây để cột lại. Một chị bơi chiếc ghe tam bản ghé lại và giúp gã thu gom. Chi kêu gã lên xuồng ngồi, be bó cây vào xuồng, chèo về hướng trại. Bàn tay gã bị xướt, máu chảy ướt đẫm, gã xé một bên áo cột rịt vết thương. Khi xuồng vào đến khúc kinh nhỏ gần khu vực trại. Chị bơi tấp xuồng vào bờ ra hiệu cho gã xuống xuồng. Chị nói: Em giúp anh tới đây thôi, em không được phép vào khu vực trại. Chị bảo: chờ em một chút, em đem đồ ra băng bó vết thương cho anh. Chị chống sào giữ xuồng, lên bờ đi vào cái chòi lá mang ra một nhúm gòn, chai thuốc sát trùng và miếng băng vãi. Chị kêu gã đưa bàn tay bị thương ra. Chị dùng bông gòn thấm thuốc sát trùng chổ bị trầy, bôi vào một chút thuốc đỏ và băng bó vết thương cho gã. Chị làm công việc rất thuần thạo. Gã đoán chắc bà nầy làm y tá. Gã muốn hỏi nhưng thôi. Gã lại lí nhí nói cám ơn và lội xuống nước kéo bè gổ về điễm tập trung. Hôm nay gã là người về sớm hơn mấy người bạn, ai cũng hỏi: Sao hôm nay tài quá vậy? Gã cười mĩm không trả lời.
       Thời gian cứ trôi qua với những ngày những tháng tù đày nơi rừng U Minh. Lao động cực nhọc với mưa nắng, muổi, vắt, tuy nhiên ăn uống ở đây được tạm đủ nhờ rau hoang và bầy cá bạc ngàn đổ ra từ phía rừng sâu khi mùa mưa tràn đồng lênh láng. Hồi mới xuống đây vào đầu tháng tư, cơn mưa mới rỉ rả. Bây giờ cơn mưa đã tạnh, các láng trại được thành hình, mùa lúa gặt đã xong. Nông trường 30 tháng Tư được thành lập.Tin tức chuyển trai đi nơi khác được anh em rỉ tay nhau…đi đâu…về đâu…??? Lại có tin đồn lần nầy trại sẽ thả một số người…Ai đây…???.Mọi đồn đại rồi cũng đi qua. Một hôm gã được gọi lên C với vài anh bạn khác. C trưởng cho hay toán nầy được cho về đoàn tựu với gia đình. Anh em trong nhóm ai cũng vui mừng, còn gã thì tỉnh bơ và nói với C trưởng:
-          Cho tôi ở lại được không cán bộ…?
-          Không được, có lệnh là phải rời trại.
       Gã làm thinh với mặt buồn buồn lầm lủi về láng. Anh em trong nhóm ngạc nhiên hỏi:
-          Ai cũng muốn về…còn mầy…điên hả!!! Gã cười méo mó và im lặng vấn thuốc hút…
Đó là cuối năm 1980.
         Ngày được thả về, tất cả nhóm hơn 12 người lên phòng họp của trại để làm lể và lảnh giấy lệnh rời trại. Tất cả mọi người ai cũng được thông báo cho thân nhân vợ con vào ký vào giấy bảo lảnh nhận chồng về. Chỉ trừ anh chẵng có ai. Ban chỉ huy trại hỏi anh, anh nói: Xin cho tôi ở lại nông trường, tôi không còn ai là thân nhân. Cuối cùng ban chỉ huy trại cấp cho gã một công rừng ngoài nông trường gần phía trạm xá. Khi được cán bộ trại chỉ cho gã miếng đất được cấp, gã nhìn cái chòi lá mà trước đây chị y tá băng vết thương ở tay, chỉ cách độ một vuông đất. Chuyện gã xin ở lại lan truyền khắp nông trường. Mọi người cho gã là thằng khật khùng mới chọn ở lại cái nơi cùng khốn nầy. Nhưng người vui nhất khi nghe tin gã ở lại là Lượm.
          Buổi sáng Lượm đứng trước cửa trạm xá nhìn mấy chiếc võ lãi chở mấy gia đình được cho về chạy ngang trước con rạch. Nàng nghĩ nếu gã mà có trong chuyến về nầy thì chắc nàng buồn lắm. Một cãm giác nôn nao truyền khắp cơ thể khiến Lượm mơ màng một đều gì đó không rỏ…. Lượm nghĩ trong những ngày sắp tới nàng sẽ còn được gặp gã. 
        Cuộc đời nàng rất hẫm hiu đau buồn, từ nhỏ tới giờ có khi nào nàng được cái cãm giác như bây giờ đâu. Mới 10 tuổi nàng đã mồ côi mồ cút vì ba má chết trong trận chiến Mậu Thân. Mười lăm tuổi đã vào đội giao liên. Nàng được nhào nặng hận thù Mỹ, Ngụy, học tập chiến đấu hy sinh theo các gương anh hùng mà nàng chỉ nghe thôi chớ chưa thấy tận mặt. Từ ngày vào đội giao liên tới giờ cứ luồn lách, chốn trui chốn nhủi khi lính đi càn. Nàng chỉ nghe báo cáo thành tích diệt địch, nhưng chưa bao giờ tham gia trận đánh nào.Trình độ thì chỉ nhá nhem đủ để có thể đọc được các chỉ thị công tác. Một hôm trên đường đi công tác với một anh bạn. Lính càn nhiều quá, hai đứa chém vè ở một cái hầm chìm dưới đám dứa gai. Cái hầm chật nứt hai đứa phải áp sát nhau suốt buổi. Hơi nóng hai cơ thể cứ như rang rang truyền vào nhau. Có lúc hình như thằng bạn để tay vào ngực áo đang bật khuy gần hết. Lượm vờ như không biết nhưng thấy rộn rã một thứ gì đó rất mơ hồ, cổ họng nàng như khô, nước miếng chực chờ chảy ra. Nàng nuốt một cái ực vào. Thằng bạn thấy nàng để yên nên làm tới. Nó đưa tay luồng xuống thấp và thấp hơn. Không biết tại sao nàng vẫn để yên cho nó làm gì thì làm. Buổi tối hôm đó khi vừa ra khỏi miệng hầm thì nó đè bật Lượm ra trên miệng hầm…Nàng nằm im, một lúc Lượm nghe gió thỗi lạnh khắp người, nàng ôm riết nó sát hơn…Nàng tê dại và cãm thấy đau nhói như có một cây gai nhọn vừa đâm vào phía dưới…Tối hôm đó du kích xã phải đốt rọi đi tìm. Hai đứa rón rén về chòi canh. Mỗi đứa nằm một gốc ngủ say.
      Vài tháng sau, cũng trong chuyến công tác giao liên. Khi lính bố ráp. Lượm nhanh chân trốn được dưới hầm trú, nhưng thằng bạn bị bắn phơi thân ngoài đám dứa gai. Thấy cái xác bị bắn lòi ruột Lượm trừng trừng nhìn nó rồi bật khóc. Những ngày tháng sau đó Lượm ăn nằm hết với chủ tịch xã, tới xã đội trưởng. Hình như họ biết Lượm ăn nằm với thằng bạn du kích hôm đó. Họ tạo điều kiện đề gần nàng. Hình như nàng cũng hực nóng khi nghĩ tới chuyện làm tình. Nàng sẳn sàng nằm ra khi có cơ hội. Thật ra mấy anh ở trên cứ tạo cơ hội để được ngủ với Lượm. Các anh nói: Ủng hộ sinh lý cho các anh cũng là một công tác. Lượm tin như vậy, cho nên chuyện ăn nằm với mọi người là chuyện giống như thi hành nhiệm vụ. Sự ăn nằm quen dần cho đến nỗi Lượm không biết cái thai chình ình càng nở to ra của nàng tác giả là ai. Lượm có bầu thì bị lôi ra xử lý. Chính anh Tư Hồng chủ tịch xã đã ngủ với Lượm không biết bao lần. Anh gay gắt phê phán trước buổi họp kiểm điểm nàng: Đồng chí đã làm mất tư cách một cán bộ cách mạng. Anh nhấn mạnh: Phụ nử cách mạng luôn trong sạch để làm gương cho chị em trong đoàn ngũ, chưa có gia đình mà để có bầu là vi phạm điều lệ… Vợ của Tư Hồng là chủ tịch hội phủ nữ cách mạng, sau khi kiểm điểm gay gắt chuyện nàng có bầu và cuối cùng chị đề nghị thuyên chuyển Lượm sang cơ quan y tế khi sinh nở xong. Sau nầy Lượm biết được là bà vợ của Tư Hồng nghe phong phanh chuyện anh có ăn nằm với Lượm nên nhân cơ hội nầy đẩy Lượm đi xa. Còn Tư Hồng thì thở ra nhẹ nhõm.
          Lượm bị sẩy thai trong một chuyến đi công tác.  Nàng được nằm tại bệnh xá huyện và chuyển đi học y tá vài tháng thì ngày 30 tháng Tư đến.
          Chuyện gần đàn ông của Lượm như một đòi hỏi của cơ thể chứ không có một chút tình cãm gì ở trong đó. Ăn nằm xong thì nàng lồm cồm ngồi dậy mặc quần áo và mạnh ai nấy đi. Cho tới khi gặp được gã. Một người tù cải tạo làm lì, hiền hậu, ăn nói từ tốn. Khi gặp nàng gã dững dưng chẵng nhìn nàng như mấy lão ở trong nầy, khiến nàng cứ muốn lấn tới với gã trong nỗi xuyến xao kỳ lạ. Lượm thường đứng nhìn gã kéo gổ dưới lạch nước trước trạm xá với cái vẻ cô độc kham khổ thấy mà thương. Nàng tìm hiểu và biết gã chẵng có ai thăm nuôi. Nàng đoán chắc gã chưa vợ con nên đâm lòng yêu thầm.
          Khi cái chòi lá của gã khởi công thì mọi người trong trại phụ dựng nhà cho gã, chỉ trong hai ngày là xong. Miếng đất được nông trường cấp cho gã một công gần khu trạm xá cho nên Lượm có nhiều cơ hội đến giúp gã nhiều việc. Ngày tháng trôi qua, khi thì nàng mang cho gã một vài món ăn, vá cho gã manh áo rách…nhưng chưa bao giờ nàng nói được cái đều nàng nghĩ trong đầu. Lượm nói thầm: Đàn ông gì mà kỳ lạ…mình muốn ảnh mà ảnh ...cứ lơ lơ chẵng để ý gì hết ráo…
          Một buổi tối, Lượm nhìn qua kẻ hở của chòi tắm, thấy phía nhà gã chưa thắp đèn. Nàng quơ bộ quần áo mặc vào và thắc mắc: Cái anh nầy đi đâu, tối mò mà chưa zdìa để nhà tối om? Trạm xá cách nhà gã một vuông ruộng nhỏ cho nên nàng hay châm chú theo dõi sinh hoạt đi đứng của gã hằng ngày. Có hôm thấy gã ở trần trùn trụt phơi cái lưng vạm vở với màu da trắng muốt. Nàng thấy nôn nao một ham muốn dâng tràn, toàn thân nàng nóng rang. Luợm ước gì được nằm sát với gã. Khi ấy nàng nhấm mắt mơ màng nghĩ đến một dòng ái ân tràn ngập trong đầu… Lượm quyết định sang nhà gã xem gã có ở nhà không? Trời mới nhá nhem tối nhưng Lượm cũng cầm theo cây đèn pin. Bước ra khỏi trạm xá, cơn gió chiều hôm thổi lùa, nàng nghe lành lạnh ở vùng ngực. Lượm chợt nhớ ra mình quên mặc áo lót. Nàng đưa đôi tay bắt chéo trước ngực khi đứng trước cửa nhà gã. Nhà tróng trơn không có cửa trước. Nàng nhìn suốt vào nhưng chẳng thấy ai bên trong. Lượm đi vòng ra phía sau, thì bất chợt nhìn thấy gã vừa mới ở dưới mương nước bước lên.Toàn thân trần truồng. Một bóng trắng chập chờn trước mắt. Nàng vội trở ra phía trước gọi: Anh ơi có nhà không, sao nhà tối om zdậy? Gã nghe nàng gọi thì vội đi ngay vào nhà lấy bộ đồ bà ba đen mặc vào và nói vói ra: Có tôi…chờ chút nha ?  vừa nói gã vừa mò tìm cái ống quẹt mồi cây đèn. Căn nhà sáng lên. Lượm đứng ngay khung cửa. Ánh sáng làm lộ thân hình người con gái với bộ đồ bông hường nhô cao đôi vòng ngực. Gã tằn hắn:
                 -   Có gì hong cô Lượm?
                 - Thấy nhà tối em tưởng anh không có nhà nên đi qua coi thử anh zdìa chưa?
                 -   Tôi tắm ở dưới mương nước phía sau nhà.
          Nàng vờ như không biết gì và nói: zdậy mà em tưởng anh đi đâu? Nàng bước hẳn vào bên trong. Nhà tróng trơn chưa có bàn ghế gì ráo. Gã nói: Cô ngồi lên gường đở. Lượm ngồi lên mép gường nhìn quanh quất căn nhà rồi nói: Mai em đi chợ mua đồ cho trạm, chắc em mua cho anh một ít đồ xài, anh cần món gì cho em biết. Gã đứng xớ rớ một gốc nhà nói: Chưa biết cần gì nửa cô ơi?. Lượm dượm người đứng lên bước vài bước, rồi nhìn trước, ngó sau xem có gì mua được cho gã đây? Nàng chột dạ nói trong lòng: Nhà thiếu đàn bà có khác và cảm thương cho gã một cách chân thành. Lượm hỏi:
                 -  Anh ở như vầy…hỏng ai lo cho anh hết.
                 -   Tui quen rồi cô.
                 -   Em muốn lo cho anh...lo hoài hoài được hôn? 
Gã xua tay:
-            -  Không được đâu. Cô là cán bộ, tôi là tên tù mới được thả ra...nếu người ta biết cô lui tới như thế nầy có hại cho tui. Tui cám ơn sự lo lắng và sự giúp đở của của cô.
          Lượm trân trân nhìn gã và nói:
               - Anh...! em thương anh mà. Không ai có quyền cản ngăn em hết á! Em là một người con gái...không là cán bộ gì ráo, em chán cái luận điệu của mấy ông trong bưng nầy lắm rồi. Thời gian qua nhìn các anh sinh hoạt mọi người ở vùng nầy đều biết các anh là ai...là những người tử tế chứ không như những điều bôi xấu mà em và các người ở đây nghe về các anh... Dường như có một cơn sục sôi bùng cháy trong lòng. Lượm bước tới ôm chầm lấy gã và nói: Em thương anh!. Mùi thơm bồ kết từ mái tóc mới gội của nàng cộng lại với sự cọ sát vòng ngực nóng ran làm gã boàng hoàng lo sợ hơn là cảm xúc... gã vội tỉnh trí đưa hai tay lên hai vai nàng đẩy nhẹ ra và nói: Không được đâu...cô về đi...! Không được đâu....! Bỏ Lượm đứng khóc trong nhà, gã chạy ra phía sau ... Cánh đồng mênh mông loáng nước trước mặt gã đã tối sầm. Gã khom lưng vóc một bụm nước úp vào mặt.
           Vào một buổi trưa ngày..  tháng ...năm  1984 một chiếc võ lãi chở một thiếu phụ sang trọng và hai người con tấp vô trạm xá. Người tài công bước lên hỏi Lượm nhà của anh T.... ở đâu? Lượm nhìn xuống chiếc võ lãi, lòng tự hỏi: Ai zdậy kìa???
            Khi chiếc võ lãi tấp vô nhà của gã. Lượm ra đứng ngoài sân bệnh xá nhìn sang đấy, thấy gả chạy ra ôm chầm lấy người thiếu phụ, còn hai đứa nhỏ thì kêu ba ơi ba...! Gã quay sang ôm hai đứa nhỏ hôn lấy hôn để... Tất cả gia đình gã di tản sang sống ở Mỷ. Sau khi liên lạc được với những người bạn còn ở Sài Gòn có chồng bị tù ở vùng U Minh. Vợ gã biết gã còn ở Năm Căn. Chị xuống Cà Mau dò la tin tức và biết gã đang ở nông trường Thống Nhất. Hôm nay chị mướn chiếc võ lãi vào rước gã về.  Lượm đứng như trời trồng và ôm mặt khóc: Trời ơi! vợ con của ảnh!!!
            Chiều đó chiếc võ lãi quay mủi chạy ra khỏi nông trường, đi ngang trạm xá. Gã nhìn vào một lúc rồi vội quay mặt về phía vợ nói: Anh có nhiều kỷ niệm với cái trạm xá nầy. Người thiếu phụ nói: Vậy hả...? Chiếc võ lãi chạy khuất ra vàm kinh lớn. Tiếng bành bạch của chiếc  máy đuôi tôm dội trong Lượm nỗi đau xót tận cùng buồn bã.  Anh đi thật rồi! Em mất anh thật rồi...!Nàng đứng khóc một mình trong buổi chiều U Minh lặng lẻ.
            Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lúc nầy Lượm làm y tá cho một bệnh xá ở huyện...Một hôm nàng nhận được một món quà từ bưu điện. Đó là một sợi dây chuyền bằng vàng với hai trái tim kề nhau, kèm thêm có bức thư của gã bất cần năm nào gởi từ Mỹ về.
Cali..ngày... tháng....năm.....
                 Lượm thương mến,
            Tôi hiểu rỏ tấm lòng của em dành cho tôi và luôn ghi nhớ những sự giúp đở của em trong những ngày tháng ở rừng. Chiếc võ lãi chở vợ con của tôi vào ngày hôm đó cũng là một bất ngờ cho tôi. Trong cơn biến động trước ngày 30 tháng tư năm 1975. Gia đình tôi  lo di tản trước đó vài ngày.Vợ tôi từ Sài Gòn xuống Chương Thiện ngày 28 tháng tư để đón tôi về cùng di tản ra hạm đội Mỹ, nhưng không gặp được tôi. Mọi người trong gia đình tôi đã ra đi trong lúc chúng tôi được lệnh tử thủ của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng...và rồi những gì em biết sau đó. Chúng tôi đành thua trận. Người anh đầu đàn của chúng tôi hiên ngang gục chết trước pháp trường. Tôi mất liên lạc với gia đình và không biết họ về đâu trong cơn biến động đau đớn đó. Tôi đành chịu số phận chung cuộc của những người bại trận. Chúng tôi hèn nhát hơn vị Đại tá của chúng tôi! Chúng tôi buông súng, nạp mình cho kẻ chiến thắng là phía của em. Tôi phó đời trong bất cần số phận...và cuối cùng tôi gặp lại vợ con trong bất ngờ như chiêm bao. Tôi cám ơn ơn trên đã cho tôi hồi sinh được cuộc sống và xin cám ơn em đã tận tụy giúp tôi trong cơn khốn cùng đã qua. Tôi nhận biết rằng: Từ trong trái tim yêu thương chân thành thì không có lòng thù hận. Xin gởi em món quà từ đất Mỹ. Mong em vui lòng nhận cho, trong đó có tấm lòng của tôi.
                                                               
                    Thương mến,
                        Lê văn T...

   
   Riêng Lượm từ hôm nhận được quà và thư của gã nàng khóc thật nhiều. Sau đó nàng rời bỏ bệnh xá. Người ta không biết nàng đi đâu...?    

                                       

                                                                      (Ghi nhớ những ngày ở rừng U MINH)

        

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHỮNG ĐOẢN VĂN

BÓNG NHỚ

Anh Hai thường than thở: “Sao cứ mỗi khi Tết về là nhớ nhà quá chừng. Nhà ở đây là chốn quê hương ở Việt Nam. Một nơi mà anh Hai đã bỏ đi gần hơn 40 năm rồi. Hồi đó thời gian sao mà nó dài quá chừng. Năm năm học trường Quận. Năm năm lên trường Tỉnh. Mấy năm trên Sài Gòn. Anh thấy sao mà nhiều kỷ niệm quá…hình như đầy ấp theo những ngày tháng đó. Anh nhớ bạn bè, anh nhớ mái trường, lớp học. Anh nhớ từng con phố, ngỏ hẻm. Anh nhớ biết bao nhiêu chiều thứ Bảy, Chúa Nhật dạo phố Sài Gòn. Anh nhớ hương vị bò bía, nước mía Viển Đông…Anh nhớ chiều công viên ghế đá với tiếng thầm thì của người yêu… Anh nhớ từng cánh đồng và những con sông. Anh nhớ từng ngọn cỏ, cọng rau. Anh thèm những món ăn rất đạm bạc như cá kho tộ, tô canh chua tép với rau nhiếp, mò om. Anh nhớ tô bún nước lèo ngoài đầu chợ Tỉnh. Anh nhớ trái ổi, trái bần ở dưới quê…Anh nhớ từng khuôn mặt trong mái ấm gia đình…Anh nhớ đủ thứ hết. Mỗi lần nhớ là hình bóng những thứ đó cứ lởn vởn trong đầu óc, anh muốn bay về Việt Nam cho thật nhanh…

Rồi một lần anh Hai có dịp về lại Việt Nam. Máy bay quần một vòng từ độ thấp. Anh ngó Sài Gòn ở phía dưới, xe cộ chạy như những đàn kiến bò trên đường. Những ngôi nhà cao, thấp xen lẩn trong ánh nắng ban mai hồng hào. Chiếc máy bay đáp lướt trên đường băng. Anh nhìn bên ngoài còn những dãy rào thép gai và những hầm hố công sự của một thời chiến tranh vẫn còn đó. Bước ra khỏi cánh cửa máy bay.Trời nóng hừng hực. Anh bắt đầu lột áo bớt ra…cho đến khi chỉ còn cái áo ngắn tay mà sao vẫn còn thấy nóng oi cả người. Qua các cửa ải, anh bắt gặp nhiều gương mặt nhìn anh không mấy gì thân thiện. Gặp lại người thân. Anh có được mấy cái ôm thân thiết và nụ cười đầy nước mắt của những người nhà làm anh thấy ấm áp và xúc động vô cùng!

Chiếc xe 12 chổ ngồi mà người nhà mướn từ dưới tỉnh lên rước anh về, chạy trên đường như dồn đống xe hơi, xe gắn máy, cùng khói bụi mịt mù. Anh nghĩ “Chắc như vầy thì làm sao mà anh dám lái xe một mình đi trên các con đường nầy”. Đi qua các đường phố, anh cố nhìn cho kỷ, nhưng chẵng biết đâu là các con phố quen ngày xưa. Anh cứ hỏi hết đường nầy đến đường khác. Thằng em của anh

chỉ trỏ và nhắc các tên đường…nhưng anh không còn thấy bóng dáng nào của những con đường thân quen thuở xưa…

Về tới quê, nơi căn nhà của ba má anh thuở xưa thì vẫn còn nguyên như cũ, mọi thứ có hơi thay đổi đôi chút nhưng tuyệt nhiên nếu nhấm mắt lại anh cũng sẽ đi từ trước ra tới sau bếp…đều nầy làm anh xúc động đến rưng rưng hai giọt nước mắt…

Đứa em dâu nấu buổi cơm với mấy món mà thiếm biết anh rất thích thuở hơn 40 năm trước. Cơm nóng, canh nóng cộng với cái nóng của căn nhà. Anh vừa ăn vừa lau mồ hôi. Đứa em trai hỏi: Uống chút rượu nghe anh …Anh lắc đầu nói: Nóng thấy mồ uống gì zdô…

Suốt hơn gần 3 tuần lể trôi qua, anh Hai có dịp đi đây đi đó. Ở mọi nơi chốn đều đổi thay, không còn như anh tưởng. Anh ăn uống nhiều thứ…nhưng… thấy sao mà không ngon như lúc trước. Cả tô bún nước lèo thịt heo quay mà anh thích nhất cũng vậy…Anh nghĩ chắc tại ở bểnh mình ăn đầy đủ quá rồi đâm ngán …?

Ra Giêng, vào ngày đám giổ ba của anh. Bà con nội ngoại, chòm xóm tới nhà nhộn nhịp. Các bà mỗi người một việc cùng xắng tay nấu nướng ở sau nhà bếp. Cái không khí nồng ấm và hình bóng xưa cứ chạy suốt trong tâm tưởng. Anh hai ngồi nhớ một hồi rất lâu…Anh lấy tay quẹt nước mắt…

Ngày trở lại Mỹ. Chiếc máy bay đáp xuống phi trường. Anh ra khỏi khoang máy bay, bước vào nhà ga với không khí mát rượi. Anh Mỹ đen rà cái pass board xong, ngước lên mỉm cười và nói: Well come back USA…

Chiếc xe hơi thân quen của đứa con ra rước anh chạy trên xa lộ. Anh cảm thấy thoải mái và an toàn vô cùng. Anh Hai hơi đói bụng.Thằng con chở anh đến quán phở quen. Anh ăn ngon lành tô phở gần như cạn nước…

Đêm mới về lại căn nhà ở bên nầy, anh bị mất ngủ vì trái giờ, quen giấc gần hơn cả tháng ở Việt Nam. Anh nằm gát tay lên trán mơ màng…Anh chợt thấy một điều gì đó… hình như là …BÓNG NHỚ vừa hiện ra trong tâm hồn mình…!

H ÌNH NH Ư

Trong thời chiến tranh, anh luôn đối diện với biết bao hiễm nguy của chiến trường. Anh đã chứng kiến biết bao nhiêu đồng đội ngã xuống, biết bao nhiêu đối phương phơi xác trong các hố hầm, biết bao người dân chết oan uổn giữa hai lằn đạn. Anh đã mất đi cái thăng bằng trong cách sống. Anh thiếu vắng thời gian để có cái dịu dàng ấu yếm trong tình yêu, trừ một mối tình trong tuổi còn học trò. Bây giờ anh sống vội vả với những ngày nghĩ phép hoặc những buổi không đi hành quân. Tình yêu tinh khiết dường như không còn ở lại với anh. Anh đến với những cuộc gặp gở bất ngờ. Anh vồ dập với những cơn luyến ái trong hơi men. Lời nói yêu đương chỉ là cái lý giải để anh chiếm đoạt người tình hơn là là sự rung động thật sự của con tim. Từ đó anh vô tình đã để lại bao nhiêu hậu quả cho những người con gái đến với anh: “Nước mắt, sự đau khổ, có cả những hệ lụy trong tai nạn ái ân vội vã đó.” Chiến tranh đã đẩy cuộc đời trai trẻ của anh vào cơn lốc xoấy của cơn lửa táp, đạn vèo. Anh như bị đánh mất bản chất con người của anh trong cơn biến động đó.

Đến một lúc rồi anh cũng phải có vợ. Cưới vợ như là một định kiến của gia đình, thân tộc và định vị lứa đôi của cuộc sống đời thường.

Thời gian trôi nhanh…Anh nhìn về phía trước một đoạn đường lấp ló buổi chiều tàn. Đôi lúc anh quay đầu nhìn về quá khứ. Một thời gian dài hơn 40 làm vợ chồng đã trôi qua trong bao gian truân khốn khó...Bây giờ hai người đã già, không còn đi làm nữa. Con cái đã có gia đình và có cơ ngơi ổn định. Hai bóng già lặng lẻ sống bên nhau trong gia đình càng lúc càng tróng vắng…. Không biết có phải vì biến thái của tuổi già hay vì tính khí khác biệt của mỗi người mà sự va chạm thường xuyên có dịp khoấy lên..? Có một cái lực vô hình nào đó đẩy mỗi người mỗi ngày một xa. Cái xa không phải là khoảng cách mà xa trong tình cảm …? Suốt hơn 2 năm vợ chồng sống chung nhà, nhưng mỗi người mỗi phòng riêng.Sự gìao tiếp với nhau bề ngoài cũng rất bình thường vì bổn phận làm cha, làm mẹ với những đứa con, làm ông bà với những đứa cháu và vì sự giao tế bạn bè thân thích. Nói tóm lại, mỗi người ráng đóng vai trò cho thích hợp với mọi hoàn cảnh. Đến một ngày vợ anh bệnh nặng và tách hẳn về nhà đứa con gái để tiện viêc chăm sóc, thì sự xa cách bị đẩy xa thêm.Thỉnh thoảng anh về bên nhà con gái để giúp đưa vợ đi nhà thương hoặc làm một vài cử chỉ nặng về phần an ủi nghĩa tình, dù sao 2 người cũng có mấy chục năm chăn gối.

Mấy năm liền anh sống trong căn phòng đơn chiếc với những sinh hoạt tự túc châm lo cho mình và thằng con út còn đi học. Thời giờ còn lại, anh tìm quên trên bàn máy vi tính với những bạn ảo trên Net và trên Facebook. Những bài thơ, những bài văn lúc nầy được trải ra nhiều hơn. Khoảng lấp nầy cũng chỉ giới hạn chừng mực nào đó…còn lại nỗi cô đơn của tuổi xế chiều đang còn sức luyến ái, đôi lúc bậc dậy trong anh những cơn thèm khát xác thịt. Anh cũng chỉ dằn lòng lại thôi…

Nhiều lúc ngồi một mình, anh nhìn lên khoảng trời mịt mù sương khói, cánh chim nào đó bay trong trời giá lạnh, về một hướng rất xa xăm…. Quỷ thời gian của đời sống không còn bao nhiêu nữa là hết. Anh chợt thấy buồn buồn cho cuộc đời mình…Anh như cánh chim kia cứ bay đi thầm lặng đến cuối chân trời.Trong một khoảng riêng buồn…anh thấy có một nỗi hụt hẩn rất lớn trong tâm hồn… hình như tình yêu thực sự đã mất trong anh tự bao giờ…!?

CUỐI NĂM XỨ NGƯỜI

Do hiện tượng thời tiết, cả gần hơn tháng nay trời cứ mưa liên tục. Mưa không lớn. Mưa rỉ rả. Gió lạnh lùa ngang cây trơ cành bên ngoài. Bầu trời một màu xám mờ. Trời không băng giá, nhưng những cây loại nhiệt đới được đặt bên trong mái hiên nhà sau thì ủ rủ gần như trân mình, bầm lá, mặc dù được che bởi những mảnh nilong.

Buổi sáng ngồi uống cà phê, nhìn cây mai tứ quí nhú mầm nụ hoa. Tháng cuối năm âm lịch sắp hết. Ừ cuối năm rồi! Cuối năm của một khoảng đời gần hết. Cuối năm chập choạng với những ngày lặng lẻ. Cuối năm với cơn mưa lạnh nơi xứ người. Cuối năm tôi co ro như những cành cây nhiệt đới. Cuối năm chẵng có niềm vui nào trổi dậy trong hồn. Cuối năm lẩn thẩn với mớ nghĩ suy quanh quẩn rồi than thở một mình. Cuối năm xứ người sao buồn quá…!

LẨN THẨN 30

Vợ tôi nói: Năm nay tháng 12 thiếu, không có ngày 30 đâu nghe ông! Có đi đâu chơi nhớ về nhà để cúng cơm mời tổ tiên, ông bà, cha mẹ vào buổi trưa … Em chuẩn bị mâm ngủ quả để cúng mừng vui năm mới. Anh nhớ mua phong pháo đốt lúc Giao Thừa để xóa đẩy hết những đều không tốt của năm cũ. Nhớ là ngày 29 đó nghe! Tôi ừ ừ ...đàn bà có khác…! Cái gì mà phải nhắc nhở ....năm nào cũng vậy mà….! Nhưng tôi chợt nhớ lời bà xã … năm nay không có ngày 30 đó nghe. Ừ…Ừ… không khéo lại quên mất…Tôi thẩn thờ nhớ: Đêm 30 xưa nơi quê nhà trong thời thơ ấu bên mái gia đình êm ấm. Đêm 30 lê bước trên phố khuya với lòng trỉu nặng tình buồn. Đêm 30 nơi trại lính trong thời chiến tranh với rượu nát tàn canh. Đêm 30 nơi “Trại Cải Tạo” sau ngày 30 tháng Tư với nỗi buồn cho một ngày mai vô định! Đêm 30 nơi đất khách với cảm giác buồn nhớ quê hương. Một nửa cuộc đời nơi quê nhà với bao thăng trằm cay đắng. Một nửa cuộc đời bình lặng nơi đất khách quê người với bao nỗi trằn trọc, thao thức về đất nước quê nhàThoáng chốc đã hơn 70 năm làm người!

Năm nay đón Giao Thừa nhầm ngày 29…Tôi chợt thấy thiêu thiếu một cái gì đó…vì không có ngày 30 “Em đến thăm anh đêm 30…còn đêm nào buồn hơn đêm 30…Anh nói với người phu quét đường…Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em”.

SAU NGÀY 30 THÁNG TƯ

Tôi có người anh bà con, ba anh đi kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông hy sinh lúc Hiệp định Geneve vừa ký xong…1954 anh bị đưa ra Bắc lúc anh mới 12 tuổi. Anh thực sự nghĩ cái chết của ba anh bởi lòng yêu nước c ũng nh ư bao nhi êu ng ư ời tham gia kh áng chi ến th ời đ ó. Mấy chục năm ra Bắc, anh bị nhồi nhét lý tưởng Cộng Sản. Họ chèn ép nhân dân và thanh niên miền Bắc vào khung hận thù miền Nam và Đế Quốc Mỹ.Thật sự chủ nghĩa Tự Do của miền Nam và Đế Quốc Mỹ anh chưa bao giờ biết rỏ. Anh bị bưng bít sự thật và chỉ biết qua tuyên truyền là nhân dân miền Nam sống trong áp bức, đói rách, bần cùng…

Tôi được 11 tuổi, sống và lớn lên trong miền Nam. Tôi được đào tạo trong cái nôi Tự Do - Dân Chủ.Thực sự tôi không biết cái giá trị nầy ở mức độ cần thiết là bao nhiêu.Từ lúc nhỏ tôi nghe tuyên truyền chủ nghĩa Công sản là tam vô, là đôc ác, là bần cùng hóa nhân dân.Thực sự tôi không hiểu cái mức độ độc ác của Cộng sản là tới mức nào. Tôi rất mơ hồ khi ngồi trên băng ghế nhà trường, khi vào quân ngũ, cả khi buông súng đầu hàng khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh, Tư lệnh tối cao của quân đội hạ lệnh đầu hàng. Tôi và bạn bè đồng ngũ chỉ tức tối vì nghĩ rằng mình đâu dể bị thua bộ đội miền Bắc! Và thêm nữa…Cả miền Nam chắc cũng ngớ như tôi (Chỉ những người Bắc di cư 1954 là hiểu về Cộng Sản qua các cuộc đấu tố và cải cách ruộng đất lúc đó…)

Sau 30 tháng Tư năm 1975 người anh từ miền Bắc về Nam.Việc đầu tiên là anh quá ngỡ ngàn trước một Sài Gòn diểm lệ. Việc thứ hai là căn nhà của má anh là một căn nhà gạch mà anh phải thốt lên: Căn nhà thế nầy phải là cấp bộ Trưởng mới có được…rồi ngày tháng năm kế tiếp…tất cả đã làm anh từ băn khoăn và rồi đến lúc nói với tôi: Bọn mầy để miền Nam bị mất thật uổn…Bây giờ làm sao lấy lại được…?!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Dương Thu Hương ngồi bên lề đường úp mặt khóc vì một Sài Gòn phồn thịnh mà bị mất vào tay ‘Ăn Cướp”…

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 hàng hóa,vật liệu, lúa gạo miền Nam chở ra tiếp tế cho miền Bắc. Thanh niên nam nữ miền Bắc mơ vào Sài Gòn như mơ đi nước ngoài …

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 nhóm chóp bu lảnh đạo chia nhau làm giàu. Một loại Tư Bản Đỏ mà trong nước gọi là Nhóm Quyền Lợi...sắp bán đứng quê hương cho Tàu….!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 người dân cả nước mất hết Tự Do-Dân Chủ-Nhân quyền…!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975…mới đây nhất một nhà sữ học nổi tiếng trong nước nói đại ý như vầy: “Chế độ Cộng Sản là không tưởng…có đâu mà tiến tới”

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975: AI THẮNG AI….?

Sau gần mấy mươi năm anh em có dịp gặp lại. Anh nói với tôi: “Tao đã bị lừa mấy chục năm khi còn ở ngoài Bắc. Tao bị phản bội sau ngày 30 tháng Tư chính những đồng chí của tao…!.Tôi nói với anh: “Trước đây tôi cầm súng chống Cộng Sản mà chưa biết Cộng Sản thế nào...! Sau ngày 30 tháng Tư, tôi còn mơ hồ về họ..! Lúc tôi biết họ là ai thì đã muộn…Tôi đã bị đánh mât quê hương và bị sống xa tổ quốc…!

Tôi và anh ai buồn hơn ai?


Hoa ơi! Đừng kết trái

Khi mới dọn nhà về, phía sau là một khoảng đất trống.Vợ chồng chúng tôi phát họa một sân sau với vườn rau, cây trái.Vài năm sau, phía sau nhà có vườn rau và cây ăn trái, căn bản là các loại rau ăn hằng ngày: Rau râm, rau húng cây, rau húng lủi, rau dấp cá….Cây ăn trái như chanh, quit, cam, hồng, táo…Thấy đất còn trống chổ nào là tôi tha cây về trồng thêm.Vợ tôi cằn nhằn: “Ông trồng nhiều cây ăn trái, ráng thu dọn lá và mấy trái cây rớt…em lo không kham đâu a..?”. Nói là nói vậy nhưng tới mùa , cây nở hoa, kết trái thì vợ chồng tôi ra vườn sau đi nhìn từng nhánh, từng đóa hoa, chờ cho tới ngày cây đơm trái…nhìn những đọt rau thơm. Chúng tôi hái từng loại trái cây cùng ăn, cùng khen ngon ngọt…Chúng tôi có những cọng rau thơm cho một buổi cả nhà ăn bánh xèo…

Cách đây mấy tuần vợ tôi trở bịnh, lúc tôi còn ở Việt Nam và sắp tới ngày trở về.Tôi biết căn bịnh của vợ tôi trở lại lần nầy khá nghiêm trọng. Tuy nhiên chỉ còn đôi ba ngày nữa, tôi e khó đổi vé bay, nên nán lại…Chỉ việc nầy thôi làm vợ tôi giận hờn và trách cứ…!

Bây giờ vợ tôi phải điều trị lại và phải có sự châm sóc đặc biệt. Con gái tôi nói: “Thôi! Để má về ở với con, con sẽ xin nghĩ vài tháng để lo săn sóc và nấu ăn cho má. Nhà con thích hợp hơn. Khi má khoẻ lại sẽ về nhà ba…”

Mấy mươi năm chung sống. Mấy mươi năm gầy dựng gia đình, nuôi dạy con cái thành người lớn khôn và thành đạt nơi xứ người. Cho dù đời sống chung đụng vợ chồng sao tránh khỏi va chạm, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua…Cái nghĩa tình mấy chục năm gắn bó, làm sao mà dể bức rời.! Đến tuổi hưu, đáng lẻ chúng tôi cùng sống khoẻ mạnh bên nhau để hưởng những ngày còn lại của cuộc đời, cùng chia sẻ vui buồn trong cái quỷ thời gian còn lại không bao nhiêu. Cơn bịnh lần nầy sẽ làm sự sống của vợ tôi đau đớn và bất ổn…Sự kiện nầy làm tôi tan nát cõi lòng và ân hận.

Hôm nay ra vườn sau. Trời vào Xuân đã lâu. Các loại rau nức đất, trổi mình sau mùa lạnh giá, các loại cây ăn trái với chồi non xanh, hoa kết nụ…. Cây cam, cây quít, cây táo… hoa rụng cánh sắp kết trái. …Tôi đi thơ thẩn trong nỗi buồn buồn ray rức. Nhìn lên các cành cây, tôi nói thầm: Hoa ơi! đừng kết trái, năm nầy vắng người vợ thương yêu…Mùa nầy đâu có ai cùng chia sớt niềm vui…!!!

Mùa nầy hoa nở…thôi thành trái

Lòng ta rụng nát những niềm đau

Em ơi! vườn vắng em rồi đó

Hoa trái mùa nầy…Thôi tàn mau!

Cảm giác bềnh bồng

Mùa Đông đến. Khi tôi ngồi uống tách cà phê sáng ngoài hiên sau nhà, nhìn bầu trời như thấp xuống với những đám mây phù thủy vạn hình không rỏ nét. Những cành cây khô trong mù sương đứng trơ trơ, trân mình trong cơn lạnh. Tôi mường tượng một điều gì đó rất xa xăm. Tôi hơi hụt hẩn trong mỗi lần mò về quá khứ.

Bên nhà hàng xóm có tiếng vọng âm thanh của bài hát “Bài Thánh Ca Vô Cùng”. Tôi chợt nghĩ “Mùa Noel” sắp về…Và nhớ về mùa Noel năm xưa…

Trước đây còn đi làm ở một cửa hàng bách hóa. Cứ gần đến Noel là họ mắc dây đèn, trưng bày cây Noel và hàng hóa cho mùa lể gần cả tháng trước. Các món hàng được hứa hẹn là on sale trong ngày 24 tháng 12 và sau ngày 25 tháng 12. Ngày Lể coi như hiện diện ở tôi với chiếc mũ đỏ của ông già Noel để làm dậy lên cái không khí mua bán nhộn nhịp của cái thương hiệu Super Walmart.Từ ngày nghĩ việc về hưu, tôi chỉ lặng lẻ nơi căn nhà, ít muốn giao lưu với ai. Mỗi sáng ngồi uống café một mình. Mỗi ngày lên máy computer để xem tin tức, lướt qua Facebook và viết một vài câu thơ hoặc viết tiếp cái truyện còn dang dở.

Mỗi ngày tôi bềnh bồng với những mớ hoài ức khi nhìn ra ngoài trời mây. Mây cũng bềnh bồng theo từng ý nghĩ chập chùn gợi nhớ...

Khi ngồi trước khung máy. Tôi bềnh bồng với hình ảnh, chữ nghĩa. Tôi bềnh bồng với những nghĩ suy. Tôi theo với những dòng chữ. Tôi theo với ngón tay đưa đẩy con mouse. Tôi theo với cái kéo mủi tên lấp thêm mớ chữ vào bài viết. Ở đó là quá khứ. Ở đó, là hình ảnh của một thời rất xa xưa. Ở đó, là từng chập mây khói bay qua trong cảm giác và hiện rỏ qua dòng chữ. Có khi tôi chợt khóc. Có khi tôi chợt vui. Có khi tôi xao xuyến. Có khi tôi rạo rực. Có khi tôi ngộp thở...Tôi miên mang với từng ngón tay trên phím chữ. Ký ức dội về trong “Dòng Trôi Cuộc Đời”…Bản thảo viết về cuộc đời của tôi.

Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ ngưng tay. Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ hết còn suy nghĩ.Tôi thả thân nằm xuống, xuôi bỏ cuộc đời..! Lúc nầy hồn tôi sẽ bềnh bồng vào cõi hư vô. Hiện tại và quá khứ sẽ chỉ còn ở lại với những dòng chữ bềnh bồng…Không biết có đáng giá gì không? Nhưng ít ra tôi biết, tôi đã làm một điều mà tôi rất thích.Chỉ có vậy thôi…!

LÀM NGƯỜI CHÂN CHÍNH

Viết tặng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Tôi vốn người gốc miền Tây Nam Bộ,…Thuở nhỏ tôi mê văn Hồ Biểu Chánh, tôi khoái văn vẻ của ông Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, sau nầy là Hồ Trường An. Tôi thích cái mộc mạc của người miền Nam, đặc sệt những âm điệu dân dã qua các câu chuyện. Sau nầy khi lớn lên, tôi đọc nhiều tác phẫm của các nhà văn khắp xứ của miền Nam trước năm 1975. Nhưng cái cảm giác ăn sâu vào tâm não vẫn là những tác giã mà tôi thích như nói ở trên. Khi ra nước ngoài tôi mang theo một số tác phẫm còn ít oi sót lại trên kệ sách để ở nhà của ba má ở dưới quê, những trang sách với những chữ in bằng khung in chì trên những trang giấy in đã biến thành úa vàng…Tôi trân quí các quyển sách đó và lâu lâu đem ra đọc…Lúc đọc, tôi bắt nhớ nhiều thứ vụn vặt vào cái thời thanh niên mới lớn của mình, như khi ra nhà sách Khai Trí, đi chộn rộn vào những chiều thứ Bảy qua những kệ sách bên dưới cho tới tần lầu phía trên….Thời gian đó tôi tập sự viết văn, thay vì làm thơ như mọi khi…Tôi muốn viết theo phong cách của những nhà văn mà tôi thích. Tôi viết đâu đó vài cái truyện ngắn…Tôi đọc đi đọc lại thấy kỳ kỳ, rồi xé bỏ vì muốn bắt chước mà không được…văn nó phát ra từ nguồn cảm hứng và thể hiện bản chất tự nhiên của người đó, bắt chước làm gì, mà có được cái giãi gì đâu…?Nghĩ vậy tôi bỏ viết truyện luôn. Sau nầy tôi có viết lại nhưng là từ cách viết nhật ký, rồi quen dần viết truyện ngắn qua cách thể hiện như viết nhật ký…viết từ cuộc sống của tôi và tôi vui vẻ ở lại với dòng viết nầy…

Khi qua Mỹ, vì bận bịu với công ăn việc làm, tôi đã bỏ hết thú đọc sách và bỏ luôn chữ nghĩa. Tôi chỉ đọc thoáng qua mấy tờ báo biếu về tin tức và vài mẫu chuyện cũ in lại. Cho đến một hôm ra nhà sách, tôi cầm lên một quyển sách mỏng với tựa là “Cánh Đồng Bất Tận”. Anh chủ quán ngó về phía anh và nói:Anh mua quyển nầy về đọc đi, anh bạn của tôi mới về Việt Nam mang qua vài cuốn cho tôi bán thử.Vốn là người không ưa mấy quyển sách của các tác giả viết sau năm 1975 vì đa số viết theo chánh sách và chỉ đạo của nhà nước. Tôi tò mò lật đọc vài trang…Tôi lại đọc tiếp, một sự thu hút quá nhanh đến với tôi qua những dòng chữ đặc sệt miền Nam.Tôi ngưng đọc và thầm nghĩ phải mua quyển sách nầy về nhà đọc mới tận hưởng hết những cảm giác mà từ lâu rồi tôi mới bắt lại được…Từ đó tôi đâm mê giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư và viết thư về cho đứa cháu ở Sài Gòn tìm mua các quyển sách mà Nguyễn Ngọc Tư đã xuất bản gời qua bên nầy để đọc. Thời gian sau nầy khi bắt trớn viết lại, tôi hay làm thơ, viết văn và giao lưu trên Net…Cách đây hơn 2 năm, tôi bắt gặp Nguyễn Ngọc Tư trên Face Book và mò tìm thấy Bloggs của cô. Tôi liên kết vào trang Bloggs của Tư và từ đó tôi đọc bài viết của Tư trên Net. Biết cô còn trẻ, sinh sau năm 1975, tôi càng ái mộ cô về cách thể hiện tâm trạng của cô qua các bài viết ngắn, rất đổi đời thường, nhưng phản ảnh được cái xã hội của miền Nam sau năm 1975, nhất là các đề tài quanh quẩn nơi cô sinh sống, đất Cà Mau…Nơi chốn, sau 1975 tôi là một người tù”Cải Tạo”. Đầm mình trong những tháng ngày nơi vùng đất U Minh “Muổi kêu như sáo thổi-Đỉa lềnh như bánh canh”.Thời gian nầy tôi tiếp xúc được với người dân U Minh.Ban đầu họ còn xa cách và hận thù với những người của chế độc cũ, dần dà họ thân thiết và thật sự có cái nhìn khác về những người lính VNCH.Có một dịp ghé nhà một người dân., tôi thấy một em bé cở hơn 10 tuổi, ngồi cậm cuôi viết chữ I,T, một em lớn hơn chắc là chị của bé đang ngồi trả lời vài câu hỏi trong bài văn.Tôi thấy thương cho các em, tới tuổi nầy mới được cấp sách đến trường. Thấy tôi nhìn vào trang sách, em nói:Chú ơi! dùm góp ý với cháu để trả lời câu hỏi nầy “ Trong thời chiến tranh, một anh du kích giết được 4 tên lính ngụy, một anh khác giết thêm 5 tên lính ngụy…câu hỏi:Vậy ta đã giết tổng cộng được là bao nhiêu tên lính ngụy”.Tôi đọc câu hởi với sự khó chịu trong lòng mà không nói gì cả.Tôi buồn buồn cho một thế hệ con trẻ với cái lối dạy dổ lòng câm thù và nuôi lòng câm thù của nhà cầm quyền mới cho các cháu mà thực sự các cháu không biết.Thấy tôi ngần ngừ, mẹ của cháu nói:Mầy ráng làm đi đừng hỏi chú ấy…!

Thời gian trôi qua, bây giờ tôi đọc Nguyễn Ngọc Tư trên Net, tôi chợt nhớ về chuyện cũ, vào thời đó chắc cô cũng chỉ vài tuổi và cũng từng học như vậy khi đến tuổi đi học…Bây giờ cô lớn lên, cô thực sự thấy bao điều của vùng đất cô ở, những thay đổi quá ngao ngán của một xã hội “Ưu Việt”mà sản sinh ra những con người quá dã man, những con người cho là vĩ đại mà rất đốn hèn…Những bài viết của cô làm tôi say mê đọc. Với một gốc nhìn không quá bi quan về những mầm non trổi lên mạnh mẻ trong bùn đất, bật lớn tươi tắn dưới ánh mặt trời chân lý, làm một con người chân chính trong một xã hội đầy dẩy bất lương.


MÙI TẾT

Hồi còn nhỏ, ở quê nhà…Lúc đó tôi cỡ hơn 10 tuổi.Mỗi năm cứ vào gần hết tháng 12, gió từ cánh đồng phía tuốt ngoài ruộng, sau nhà thờ Tin Lành thổi về với mùi rơm rạ còn mới.Mùa lúa vừa gặt xong còn trơ những gốc rạ và những vũng nước bùn.Cái mùi nồng nồng, hăng hắt đưa vào hai cánh mũi của tôi.…Gió từ bờ sông phía bên kia nhà lồng chợ, cũng đưa thêm về cái man mát gay gây. Những cơn gió cuối năm đôi khi thốc mạnh làm cuộn lên những dề cát cuốn ụp vào người, tôi bụm hai tay che mắt. Lúc đó, tôi nôn nao trong lòng vì biết rằng Tết sắp về…Ba má sẽ sắm cho tôi bộ đồ mới.Tôi sẽ có một mớ tiền lì xì từ ba má và bà con thân thuộc…

Bọn trẻ con chúng tôi thì mừng rở, còn người lớn thì cứ than thở : “Mới đó mà Tết tới nữa rồi…!”. Người lớn thi tất bật gồng gánh, buôn bán quanh năm…công việc cứ bề bề ra, lo chưa xong thì Tết lại đến. Bọn con nít như chúng tôi thì lại mong Tết về…đâu biết gì mà lo…

Gần sát ngày Tết, mặc dù vẫn còn bận rộn với công việc buôn bán, má tôi cũng dành thời gian lo ngâm gạo, ngâm nếp, phơi lá chuối để gói bánh ích, bánh tét. Chưng xong bánh tét, bánh ít đem treo trên giàn, thì đến lo đánh bột làm bánh bông lan…

Lúc còn nhỏ, tôi thường quanh quẩn bên má để giúp má hoặc để má sai vặt. Là đứa con trai lớn trong nhà, tôi thấy má làm một mình cực quá nên không nở bỏ đi bắn cu li với bạn bè mà ở nhà phụ một tay với má. Nồi bánh Tét xôi ùn ục…má kêu tôi thêm củi, tôi đút từng thanh củi vào lò. Má mở nấp nồi thăm chừng. Khói bốc lên nhiều, má nghiêng đầu tránh hơi nước nóng, lấy cây đủa dài xốc trở. Mùi lá chuối xông lên nghe thơm phức. Gần ngày Tết hơn nữa, má cân bột, đếm trứng để làm bánh bông lan, thì tôi phụ đánh trứng, đánh bột. Công việc phụ trợ của tôi được má thưởng cho ăn mấy cái bánh thử nóng hổi hoặc mấy cái bánh bông lan quá lửa, hơi đen đen nhưng thơm phức mùi vanila.

Ba bớt đi giao hàng vì cận Tết, ngồi tính sổ sách cuối năm. Hai bên trước cửa nhà, ba đặt hai chậu bông cúc nở vàng.Trên bàn thờ thì ba chưng bông vạn thọ. Cả nhà tôi thơm mùi bánh, mùi hoa, mùi nhang.

Người lớn ai ai cũng xem ra bề bộn lo lắng, còn bọn trẻ chúng tôi thì thấp thõm đợi ngày 30 Tết được tắm rửa sớm hơn mọi ngày và được ba má để sẳn bộ đồ mới cho ngày mai mặc đi chơi.

Đêm 30 má lo sẳn một dĩa trái cây “Cầu, Dừa, Đủ, xoài(Xài)”và một bình cấm bông vạn thọ. Đúng 12 giờ khuya, phía bên nhà thờ Tin Lành giựt chuông tinh toong. Ngôi chùa Phật phía bên sông đánh trống, bổ chuông in ỏi. Má lâm râm khấn vái trước bàn thờ đặt trước sân. Ba đốt dây pháo đỏ treo trên nhánh cây trước nhà, châm ngòi nổ đì đùng…Cả xóm chợ đâu đâu cũng đì đùn tiếng pháo.Tụi con nít chạy hết nhà nầy qua nhà khác lượm pháo lép hoặc chưa nổ kip bỏ vào túi áo…Có đứa vô ý bỏ vô cái pháo còn đang cháy ngòi, pháo nổ làm cháy áo, phỏng bụng.

Mùi Tết, mùi nhớ quê hương. Mấy chục năm rồi xa xứ. Khi hết tháng 1 mùa Đông còn đang lạnh, máy sưởi trong nhà chạy suốt đêm ngày. Căn nhà trống hoe.Vợ chồng còn tất bậc với công việc ở hảng xưởng. Con cái thì đi học….Đến cận ngày Tết Ta thì mới chạy ra chợ mua bánh chưng bánh tét và vài chậu bông đem về chưng bàn thờ. Chuẩn bị nấu vài món ăn truyền thống như thịt kho, dưa giá…Mùi vị ngày Tết không còn …chỉ còn là nỗi hoài nhớ…Khi qua đêm trừ tịch, hai vợ chồng ngồi nhắc chuyện ngày xưa. Đêm 30 đi qua…Ngày mai lại tiếp tục đi làm, con cái đi học. Bàn thờ cúng cơm ông bà chỉ là cái bằng chứng để lại với khói nhang thơm nhẹ…Mấy đứa nhỏ còn cằn nhằn “Ba má đốt nhang nên mở cửa… Tụi nhỏ sợ khói nhang làm ngộp thở và hôi nhà…Kêu tụi nó khấn vái trước bà thờ ông bà thì tụi nó chỉ đốt một cây nhang, chấp tay xá xá cho qua việc. Có khi chúng đi làm, đi học thì chỉ hai vợ chồng dọn bàn cúng lạy…mà cũng chỉ nán lại trước bàn thờ vài phút rồi đi lo công việc khác.

Người lớn thì cố giữ lại truyền thống Tết được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu.Còn tụi nhỏ thì…khó quá! Tôi đâm nghĩ “Khi đám già cuốn gói về đất hết thì chắc tụi nó cũng quên cái vụ Tết nhứt nầy “Thật ra thì tụi nhỏ đâu có cái mùi Tết như mình có hồi từ thuở nhỏ đế mà nhớ…!

HỐI HẢ CUỐI ĐỜI

Trong đời người có biết bao nhiêu lần hối hả. Có những hối hả lo toan, nếu mình chưa hoàn tất với cái mức quy định của công việc hoặc thời gian thì mình có thể làm tiếp sau đó.Tuy nhiên có một sự hối hả mà mình phải hoàn tất, nếu không thì mình sẽ không có cơ hội để hoàn tất. Đó là sự hối hả của những ngày gần cuối cuộc đời. Quỹ thời gian của cuộc sống không còn bao nhiêu.Sự bất chợt rủi ro của tuổi già có khi vô chừng, khó đoán, cho nên sự hối hả như một điều thúc đẩy người tôi cố nghĩ, cố lọc lựa những gì mình cần phải hoàn tất trong khi có thể làm được, còn chừa một khoảng rủi ro nào đó mà thần chết giáng xuống mình bất thình lình.Cái quan trọng mà tôi phải làm trước đó là món nợ văn chương vướng lụy mấy chục năm qua, từ lúc biết làm thơ, viết nhật ký của tuổi 15, cho đến nay tóc đã nghiêng màu trắng. Cuộc bể dâu đã làm cuộc đời tôi nổi trôi thăng trầm. Cùng với thăng trầm đó là những dòng văn, những dòng thơ được trải ra trên giấy năm xưa và trên dòng Net ngày nay.

Tôi muốn nó ở lại đời khi tôi ra đi.Tôi muốn nó ở lại với thân quyến, bạn bè và theo linh hồn tôi về tận miền miên viển nào đó.

Tôi viết vì tôi, vì người thân và bạn bè.Tôi không ham muốn làm nhà văn, nhà thơ.

Tôi là một người muốn trải lòng ra để giải tỏa nỗi lòng cho chính tôi và chia sẻ với những người thương mến tôi bằng chữ nghĩa.Còn lại những thứ khác, nếu tôi chưa làm hết thì có người khác làm thế cho tôi.

Tôi muốn chính tôi phải hoàn tất những dòng chữ mà tôi đã viết, thành từng tập.

Tôi muốn được nhìn thấy nó đã thành hình.

Chỉ duy nhất có điều nầy làm tôi hối hả để hoàn tất trước lúc chia tay với đời sống nầy.

TÌNH NET

Ngày xửa ngày xưa, lúc còn mài đủn quần trong lớp học. Lúc đó khi yêu nhau người ta thường viết thư trao đổi tình yêu qua trang giấy học trò, kha khá hơn nữa là những mảnh giấy màu mõng. Thông thường rất kín đáo trao cho nhau bằng tay chứ ít khi gởi bằng thư từ, vì sợ bị lộ Khi ba má bắt được thư thì có mà bị tẩm quất hay la rầy một trận: “Còn nhỏ mà không lo học hành…ở đó mà yêu…Từ nay phải chấm dứt nghe con….phải lo học hành trước đã…” nghĩa là cha mẹ có quyền cấm con cái đi vào đường yêu đương và dỉ nhiên mấy tờ giấy viết sẽ bị xé nát và cho vào sọt rác. Tình yêu trai gái thuở đó cũng thường chỉ quanh quẩn trong xóm làng, quẩn quanh nơi phố chợ, ít khi xa ngàn dậm…? Với đà phát triển nhanh của khoa học qua các bàn máy vi tính và qua hệ thống Net, sư liên kết của con người vượt xa khoảng cách, vượt biển trời bao la để tìm đến nhau qua E-mail, tin nhắn. Các bậc cha mẹ ngày nay không còn kiểm soát con cái theo cái kiểu ngày xưa nữa, mà có kiểm soát cũng không được, đành phải chấp nhận một cách miển cưởng, bó tay, đành chịu…!

Các trang nối kết như hệ thống của các nhóm trên yahoo.com các trang mạng liên kết như facebook…đã làm mọi người trên khắp thế giới gần nhau hơn, thư từ, tin nhắn, hình ảnh chỉ chuyển trong tích tắt….Từ đó hình thành những mối tình ảo, vượt không gian mà yêu nhau. Sự trao đổi đôi lúc màu mè công chúng (public) sau đó chuyển qua nơi kín đáo hơn bằng Chát (Messenger). Có nhiều mối tình Net đến với nhau dịu dàng trên Net và rồi sau đó hẹn hò gặp mặt nhau, đôi khi hợp ý thì tiến tới hôn nhân thật sự, cũng có những quái quâm vở khóc vở cười khi đối diện với sự thật phủ phàng, hình em, anh trên Net thì quá đẹp…hoặc trí tưởng tượng về người yêu quá toàn vẹn, khi gặp nhau bị vở mộng…Chẳng hạng nàng hoặc chàng đi đứng cà thọt, ăn nói thì ấp a ấp úng ngọng nghệu…Có những mối tình chỉ cốt bẹo kéo nhau để cho qua buổi trng vắng của những ông bà ở tuổi về hưu, có nhiều thời giờ ngồi trước máy vi tính chát để đốt thời gian. Cũng có những cảnh ông bà đang sống ung dung với nhau mà lại ngoại tình trên Net. Ông một cái máy, bà một cái máy mặc tình mà chát yêu, chát quái. Mỗi người tìm thời gian thích hợp mà chát để khỏi bị lụy phiền, để khỏi bị khám phá…!Tân tiến hơn, mỗi người có một cái máy điện thoại thông minh…lúc nầy mặc tình mà liên kết, ở mọi nơi, ở mọi lúc, tha hồ ông chát, bà chát, con chát, rể chát, dâu chát…mọi người đều có cơ hôi ẩn náo riêng tư mà liên kết với nhau.

Tình yêu trên Net lại hình thành nhiều tình huống khác nhau và từ đó nở rộ ra các nhà thơ, nhà văn bất đắc dỉ với những bài thơ, bài văn gạ trao tình yêu vô cùng lãng mạng, đôi khi vô cùng Sến hằng ngày dán lên các trang mạng. Xin mở ngoặt phân ra các bậc đàn anh, các bạn văn, thi sĩ thực thụ dán lên nhiều bài viết rất giá trị để trao đổi với nhau. Nhờ đó tôi hân hạnh gặp được nhiềc bậc đàn anh, đàn chị v à bạn bè mà tôi rất quý mến. Cũng từ trên Net, có nhiền vụ lừa đão tình yêu….phờ phỉnh tình yêu xảy ra…tình ảo mà….có ai kiểm tra được đâu?! Mà thực ra có chết thằng Tây nào đâu với mấy dấu hiệu trái tim gởi cho nhau kèm qua các lời nói âu yếm…sống động hơn là những con vật nhả ra hằng hà sa số trái tim yêu qua ảnh gif. Có mất đồng nào khi gởi những bó hoa hoặc quà cáp trên Net. Ôi thời đại tân tiến! Ôi thời đại tình Net, tình Ảo… Thôi thì cứ phất phơ vào Net để đốt thời gian nhàn hạ. Mua vui cũng được một vài trống canh!Phải không các bạn?


MỘT MÌNH

Từ ngày bà xã tui xách gói đi ngủ riêng tới giờ …tôi cảm thấy mình thoải mái hơn. Chẵng là vì, khi lớn tuổi lúc trở trời trở gió mình mẩy ê ẫm, xương cốt hết đau khớp nầy, chạy qua khớp khác. Đêm ngủ chung giường với bà xã nhiều khi lấy tay đấm chồ nầy, bóp chổ khác trên cơ thể mình, hoặc xoay trở lặn lộn cho đở mõi…Bà xã tức mình càu nhàu “Cái ông nầy làm gì mà rục rịch sáng đêm làm sao người ta ngủ được!”.Tránh lời rên rỉ của bà xã…tôi cố gắng trân mình chịu đau hoặc trở mình nhè nhẹ. Nhưng làm sao khỏi nhúc nhích đôi chút được…!Mặc dù tôi đã mua chiếc nệm theo quảng cáo: Ông nhúc nhich–bà không bị nhúc nhích. Bà xã của tôi vẫn phàn nàn vì sự lăn trở của tôi.Tôi hơi quạu bởi vì mình cố gắng chịu đựng cái thân thể bất tuân như ý rồi mà còn bị cằn nhằn hoài. Tôi nói: “Tại bà khó ngủ chứ đâu phải tại tôi…hồi nẫm đôi khi ngủ say sưa bà còn ngáy khò kho.Tui có nói gì bà đâu? Vợ tôi nói: Hồi đó khác, bi giờ nầy khác…!Tôi chịu lép vế nằm làm thinh.

Ban đêm vì không ngủ được tôi cứ ngồi bật dậy đi tiểu…cái gì quá kỳ cục, cứ đi tiểu vừa xong vào giường nằm một chút lại muốn mắc tiểu nữa….Bà xã cầu nhàu “Cứ leo lên, bước xuống giường và dội cầu hoài làm sao ai mà ngủ cho được…!Đi khám bác sĩ đi.Coi chừng bị ung thư tuyến tiền liệt đó.(Chuyện nầy khỏi lo vì tôi đi khám rồi…tại uống nước nhiều-khi ngủ hỏng được thường là như vậy…).

Chưa kể nhiều khi xem một cái phim hay, mình muốn coi cho hết, bã rên rỉ: Làm ơn tắt cái TV cho người ta ngủ...ngày mai còn phải đi làm.Tôi cụt hứng tắt cái TV.

Còn nữa, tôi hay hứng tình với nàng thơ. Khi một ý thơ nào đó hay hay hiện ra trong đầu, tôi bậc cái máy vi tính lên và ngồi hằng giờ để làm thơ hoặc viết truyện… luôn thể đọc mail của bạn bè gởi cho mình và trả lời, đôi lúc đọc nhiều bài thơ hoặc bài viết hay mình góp ý. Vợ tôi lại than thở tiếp vì mấy tiếng cộc cạch của bàn phím khi tôi gỏ chữ.

Nhiều lúc bà xã tôi lại tò mò xem tôi làm cái gì trên máy vi tính mà ngày nào cũng mở máy và ngồi ngâm rất lâu. Vợ tôi nghe câu chuyện mấy lão niên cứ lên mạng chát chiếc với mấy em “Cỏ Non” ở Việt Nam…lâu ngày đâm mê mệt và hẹn hò kiếm chuyện về bên đó mà du dương.

Có một ông sau khi đi về Việt Nam nhiều chuyến, khi trở lại Mỹ tuyên bố ly dị bà vợ tắm mẵm ở bên nầy. Dĩ nhiên của cải do vợ chồng gầy dựng bấy lâu bị chia tứ tán. Con cái lớn khuyên cha, nhưng vì quá mê “Cỏ Non” ở Việt Nam rồi nên nhất quyết không nghe ai hết. Chàng già về xứ Việt làm đám cưới linh đình và bảo lảnh em sang Mỹ. Bà vợ mất một căn chung cư… để ông chồng đem con vợ nhí sang hú hí. Buồn quá bà đâm ra điên điên bởi lẻ ông chồng của bà rất hiền lành, sống mấy chục năm ông luôn là người chồng gương mẫu.Hai vợ chồng mở tiệm Nail &Tóc, bà bận rộn với việc làm, ông tận tụy giúp bà từ việc lớn đến việc nhỏ.Hai người chí thú lo làm ăn nên mua được một căn nhà và sau đó là một dãy chung cư gồm 10 căn hộ.Suốt ngày ông cứ quanh quẩn ở tiệm giúp bà điều hành công việc.Tối đến ông làm sổ sách. Bà rất thương yêu chồng và tin chồng hết mực…nhưng ở đời ai đâu có ngờ! Người lù đù “Vát lu mà chạy” ít nói như ông chồng bà lại giở chứng hồi nào mà bà không biết được.Chừng đổ bể ra sau mấy chuyến về thăm bà mẹ già của ỗng còn ở Việt Nam…Ông đòi ly dị và chia của.Bà giử căn nhà và cái tiệm, còn ông thì giử cái chung cư.Bà vô cùng đau khổ vì sự bất ngờ nầy nên đâm ra như người mất trí. Bà tức khí vì mất ông chồng thương yêu rất mực của bà“ Đồ con “quỉ cái cướp chồng bà còn nhởn nhơ hưởng phần mồ hôi nước mắt của bà…trước mắt bà!”.

Tôi không đồng tình với mấy việc như vây.Vợ chồng tay dắt, tay níu con thơ với hai bàn tay trắng sang đây.Vợ chồng xây dựng gia đình từ con số không.Tính từ thời gian bước đầu đến khi cơ ngơi khá ổn định, con cái học hành đỗ đạt và có việc làm, đó là công lao lặng lôi thân cò của vợ chồng tôi trên đất mới nầy.Với tôi…tôi rất trân quý những ân tình của vợ tôi đã khổ cực từ lúc đời tôi đầy gian nan khi còn trong nước và đã góp tay khó nhọc cùng tôi từng năm tháng xây dựng tổ ấm nơi xứ người nầy. Ai mà lại vô cảm-vô tâm phụ rảy ân tình nầy.Tuy nhiên “Ớt nào là ớt không cay- vợ nào là vợ chẳng hay ghen chồng” Với sự nghi ngờ và có thể cũng để đề phòng trước vì thấy tôi sao cứ tối ngày lên mạng hoài nhiều lần vợ tôi nhìn vào khung màn ảnh máy vi tính phía sau lưng tôi để dò xét.Tôi nghĩ chắc mẫm là bà xã tôi nghi ngờ tôi chát chiếc với ai đó, có bao giờ bà xã tôi tò mò để xem văn vẽ của tôi đâu!.Chưa bao giờ thơ văn của tôi lọt vào đôi mắt của nàng…! Mặc tôi mơ mơ, màng màng những chuyện năm xửa năm xưa với nhiều hồi tưởng qua những dòng thơ tình sướt mướt hay tưởng tượng một câu chuyện tình lâm ly nào đó để kết thành văn vẻ đậm tình éo le–lâm ly hoặc đổ vỡ.Tôi đoan chắc vợ tôi chẳng thèm ngó ngàng đến thơ văn của tôi cho dù có đem quyển thơ hay quyển văn của tôi đặt trước mặt.Nhưng từ ngày bà xã tôi giao lưu với bạn bè trong trang Web Trung Học Chợ Lách…tôi có bài vỡ tham gia.Bạn bè của vợ tôi đọc bài của tôi không biết khen thiệt hay chỉ động viên…bà xã cũng dừng mắt đọc thơ văn của tôi cho biết sự tình….Cám ơn trang Web vì tôi có một đọc giã bất đắc dĩ:VỢ TÔI!…!

Người ta thường nói: Sự thành công của người chồng luôn luôn có bóng dáng của người vợ hổ trợ. Tôi nói trại ra: “Sự thành công của các người cầm viết (Văn-Thơ-nhạc-kịch ) phía sau luôn luôn có bóng dáng của các người vợ thông cảm và chịu đựng”. Trong một cuộc phỏng vấn, vợ của nhạc sĩ Anh Bằng có nói: Ổng đi đâu thì đi và làm cái gì thì làm…khi về nhà ổng là của tôi là được rồi…”.Riêng bà xã tôi thì nói: Ông làm cái gì thì làm…nếu lựng bựng gì đó với ai… hể tôi biết được là tôi cho ông đi tàu suốt.Hồi trẻ mình rơi có người hứng lấy còn bây giờ già khú đế rồi ai mà lượm…!Lời phán hơi nặng ký như vậy…có ngán không quý bạn…? Tôi ngán lắm đó…cho nên néu lỡ ăn vụn thì chùi miệng liền hà!

Từ lâu tôi có thói quen …khi đang say sưa với những dòng thơ hoặc lời văn đang hiện ra trong đầu rồi gỏ những dòng chữ hiện ra trên màn ảnh mà bị ai đó dòm ngó là tôi mất hứng và bị khựng lại…Một hôm không dằn được cơn bực bội .Tôi nói với vợ tôi: “Từ nay tôi muốn bà để tôi yên khi ngồi vào bàn máy vi tính làm việc nghe...! Bà xã giận bỏ đi một nước và nói: Ừ tôi đi ngủ riêng…để ông thanh thơi muốn làm gì thì làm…! Và vợ tôi thu dọn ra phòng riêng từ hôm đó.

Chúng tôi ngủ cách ly nhưng sinh hoạt gia đình cũng đều hòa. Mấy đứa con biết lý do má tụi nó ra riêng không phải vì chúng tôi giận hờn nhau mà vì lý do tôi lớn tuổi khó ngủ cứ cựa quậy lung tung làm má tụi nó ngủ hỏng được…!

Mấy ngày đầu ngủ một mình, tôi thấy thiếu thiếu hơi hướm ba xã…vì mấy chục năm ngủ chung giường với nhau rồi chớ bộ …!“Thia thia quen chậu-Vợ chồng quen hơi” mà. Nhiều đêm giật mình mở mắt nhìn bên cạnh, thiếu bà xã cũng thấy lạnh lẻo cõi lòng “Ghe lui còn để dấu dằm-Người thương đi vắng dấu nằm còn đây”.

Mấy lúc sau nầy bà xã tôi hay đi chùa nghe các thầy thuyết pháp. Hồi trước ăn chay một tháng 4 ngày…dần dà ăn gần suốt tháng. Bà xã tôi khoe:Từ ngày ăn chay đến giờ thấy trong người được khoẻ hơn: đường, mỡ, trong máu giãm, ấp xuất huyết giãm.Thế là vợ tôi gần như trường chay. Phòng của vợ tôi gần như là tịnh thất…

Vợ tôi ăn chay, đọc kinh, đi chùa và ngủ chay. Dỉ nhiên tôi cũng đành ngủ chay dài dài…!Tôi tập ăn chay để giãm nhiệt cơ thể cũng chưa đến nỗi của tôi…hơi ngặt chứ bộ…!Nhưng lâu dần cũng quen!

Một mình trong căn phòng rộng, trên chiếc giường King-size(Giường lớn dành cho vợ chồng ngủ chung) tôi thoải mái tự tung tự tác: Đấm lưng, đấm bóp chân tay thả ga, đôi lúc ngồi lên nhấm mắt tọa thiền hoặc uốn éo cho phẻ gân cốt ...không sợ ai rầy rà. Nhiều phim hay cứ thoải mái xem cho tới hết…Bật máy vi tính cộc cạch thỏa thích để làm thơ tình, viết truyện yêu đương… Khi ngồi vào bàn cầu ...đọc báo, đọc thơ cũng không ai hối thúc.(Cái thú đọc mọi văn tự mà tôi vớ được khi vào nhà vệ sinh là một thói quen của tôi khó mà bỏ được). Kể ra Một Mình đâu phải cô đơn...!

Huỳnh Tâm Hoài

Cali đầu năm dương lịch 2014