Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014

TẠP GHI



MỘT CHÚT TẢN MẠN VỀ
Nhạc Sĩ TRÚC PHƯƠNG
          Đôi dòng tiểu sử
Nhạc Sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sinh năm 1939 tại Xã Mỹ Hoà, Quận Cầu Ngang, Tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) miền Nam Việt Nam. Cha là một nhà giáo rất nghiêm khắc với con cái, trái lại ông rất lãng mạn đa tình và yêu thích văn nghệ. Năm 15 tuổi ông tự học âm nhạc và sáng tác nhạc từ đó. Xã Mỹ Hoà là một vùng đất giồng có nhiều lũy tre, xen kẽ với những cây sầu đâu chạy dọc theo các giồng cát. Vào những trưa hè là chất liệu được ghi vào nét  nhạc của ông” Nắng mai non, nắng ngã tàu dừa-sáo diều lưng lưng gió- Giấc ngủ bờ tre trưa-Lời tình tiếng võng đu đưa”(Chín dòng sông hò hẹn). Rời miền quê lên Sài Gòn, ông sống với những ngày nổi trôi túng thiếu. Trong thời gian nầy tình yêu của chàng nhạc sĩ nghèo nẩy nở…Yêu, được yêu và tình yêu đổ vỡ đã hình thành những sáng về tình yêu cả tình đời của ông trong giai đoạn nầy rất sâu lắng. Nhạc của ông như gắn liền với hồn tôi qua nhiều khúc nôi tâm tình và cuộc sống. Hình như vô hình trung tâm tình của ông là của tôi vậy.

Lan man tuổi già




LAN MAN TUỔI GIÀ
Thân tặng các bạn già của tôi
                                
         Khi người ta nói tới tuổi già, thường là lúc người ta đã bước vào tuổi già! Con người sinh ra, lớn lên, rồi già đi, cuối cùng thì chết và biến mất trong thế gian nầy. Đó là luật Tạo Hoá, là lẽ tất nhiên của tiến trình trong vạn vật, muôn loài. Không ai có thể đi ra ngoài cái định luật đó. Bước vào tuổi già người ta bắt đầu nghĩ về con đường sẽ đi tới…và người ta lan man nghĩ về nó!

Gió mây ngậm ngùi



GIÓ MÂY NGẬM NGÙI


         Hồi đó Thu Hiền là một cô gái khá đẹp. Má Thu Hiền là vợ thứ của một quan viên hoàng tộc trong triều đình nhà Nguyễn nên nàng có họ tên theo như dòng họ nhà Nguyễn:Tôn Nữ Thu Hiền. Sau khi học xong trung học Thu Hiền có một việc làm ở Nha Thuế Vụ tỉnh. Ngoài giờ làm việc Thu Hiền phụ giúp mạ ở tiệm cơm của má nàng.Tiệm cơm rất ngon, giá lại rẻ nên hầu hết các chàng độc thân đều đến đây ăn, có cả một số sĩ quan trẻ. Mỗi lần Thu Hiền xuất hiện với chiếc áo dài màu hoàng anh ra vào phụ giúp mạ như đưa thức ăn hoặc tính tiền cho thực khách. Các chàng trai trẻ đều hướng mắt về nàng. Có người nhìn len lén, có người đuối mắt thẩn thờ …tất cả hàm ý một lời xưng tụng với vẻ đẹp quí phái mà dịu dàng của nàng. Trong những ánh mắt đó, Thu Hiền nhận ra có một ánh mắt…đôi lúc cuối gập khi vô tình nàng hướng về chổ người đó. Một chàng sĩ quan trẻ với cấp bậc chuẩn úy, trông anh có vẻ như là người lính mới ra trường.Tóc còn ba phân ngắn và bộ đồ nhà binh còn thẳng nếp. Anh mới xuất hiện ở quán cơm của mạ cách nay vài ngày. Hôm có dịp đến bàn cơm anh đang ăn trong một buổi chiều.Thu Hiền bạo miệng hỏi anh:

Tô canh nắm mối



TÔ CANH NẤM MỐI


         Qua giữa tháng Năm chôm chôm chín rộ. Chị Năm thức sớm lo nấu cơm. Khói nhà bếp pha trộn sương sớm là là quanh khu vườn nhà. Tiếng gà gáy đã tạnh. Đàn vịt xiêm rời tổ dẫn đàn con chim chíp ra vườn sau. Con chó mực sủa gâu gâu khi chị phụ việc bước vào sân nhà kêu “chị ơi! em tới”. Má ngồi bên chiếc bàn tròn nhà trước vừa nhai trầu vừa nói: “Vô đi Hai, chị Năm mầy ở nhà sau”. Anh Năm thì lục đục dưới xẻo mương lo đổ thêm dầu vào máy ghe và bỏ những cần xé xuống khoang. Tôi cũng thức sớm ngồi uống tách cà phê tự pha. Hai thằng con trai đứa lên bốn, đứa lên năm còn ngủ say. Đứa con gái mới sinh vài tháng oa oe khóc. Vợ tôi ru khe khẽ. Mùi hương thơm hoa bưởi hoa cam theo cơn gió len vào mái lá thơm ngào ngạt. Con chim chìa vôi vừa hót chuyền trên nhánh cây xoài tượng phía trái trước nhà. Vợ tôi ra khỏi giường khi đứa con nhỏ ngủ lại hỏi tôi: “Hôm nay anh muốn đi hái chôm chôm với anh Năm hả?”. Tôi nói: “Ừ! Đi phụ với anh chị Năm cho vui, nằm nhà buồn quá”.
         Từ ngày về đây đến nay gần hai tháng, tôi chỉ quanh quẩn quanh nhà, bứng vài cây chuối con trồng ở khoảng đất trống bên hè, đem nhánh mận hồng đào đá chôn xuống đất ở phía sau nhà. Phần lớn trong ngày là nằm võng ôm con hát, bắt hoàn từ tân nhạc.

Về Vườn



Bài viết để kính dâng đến hương hồn Cậu Má.
Riêng tặng Chích Chi để kỷ niệm đúng 40 năm vợ chồng-


            Sau năm 1978…Sau khi từ trại tù cải tạo về. Tôi như bước vào một nhà tù lớn hơn. Với sức ép của xã hội mới sau ngày ”Giải Phóng”, đời sống của người tù cải tạo tôi bị cài đặt vào khung mới. Ông Phường Trưởng là chỗ thân quen bạn bè với ba tôi. Ông khuyên tôi nên đăng ký về quê lo sản xuất. Ông nói với tôi; “cháu nên xin về quê ba má cháu đi…trong chánh sách, với diện của cháu là phải tự nguyện xin trước sẽ được chấp thuận theo ý nguyện, còn không thì đến lúc cưỡng bách thì khó mà muốn đi đến nơi mình muốn”. Nghe lời giải thích của chú Phường Trưởng, tôi ký vào giấy xin về quê ba má để lo sản xuất. Thật sự khi về quê ba má, thì tôi chẳng biết phải làm gì vì ba má tôi là tiểu thương, việc buôn bán bị hạn chế và đóng cửa luôn sau đợt đổi tiền. Thương nghiệp lo phân phối hàng hóa cho dân chúng. Ba má tôi xoay sở mua 6 công đất gần chợ để anh em chúng tôi cày cấy kiếm lúa gạo để ăn. Gia đình đông người với 6 công ruộng làm một vụ mùa thì làm sao đủ ăn và sau vụ mùa thì làm gì…? Gia đình chúng tôi vất vả để kiếm miếng ăn cho đủ căn hộ gồm vợ chồng con cháu hơn 15 người. Sẵn còn một số vốn, ba má tôi mua một chiếc xe cũ và vô Hợp Tác Xã Giao Thông Huyện để anh em chúng tôi chạy vạy lo cho miếng ăn gia đình. Nhờ vậy mà sau đợt đổi tiền mỗi hộ chỉ được $200 cho dù trước đó có bao nhiêu, đã tạm sống với số tiền thu được qua các chuyến chuyên chở hành khách lên xuống từ huyện tỉnh. Ba tôi thường than vắn than dài vì cơ ngơi làm ăn gần suốt cuộc đời không còn nữa. Ba cầm cái sổ ký thác Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín có hơn mấy triệu đồng không còn giá trị mà chặc lưỡi. Nước mắt ba tôi ứa ra khoé mắt. Má thì luôn an ủi ba và nói với ba: “Ông ơi! Ai cũng vậy mà…chuyện thời cuộc thì phải chịu vậy thôi. Có người còn nhiều hơn nhà mình nữa….!”

Oan thác hồn về nhớ đất phương Nam



Oan thác hồn về
nhớ đất phương Nam
Viết về người bạn chết trong ngục tù Cộng Sản tại miền Bắc năm 1980


  


Oan thác hồn thiêng mãi dật dờ
Anh hùng bại trận lỡ sa cơ
Ngục tù đâu dễ giam chí cả
Vượt thoát không thành phải phơi thây
Dưới tay tra tấn loài man rợ
Thịt nát, dập xương chốn đọa đày
Đất Bắc vùi thân ngôi mộ lạnh
Uất thác hồn gào rung cỏ cây
Phương Nam hướng vọng về cố thổ
Trà Vinh chốn cũ một thời trai

Bản Án



BẢN ÁN

          Hia(anh) Xồi là một người Hoa gốc Việt.Cha hia từ bên Tàu sang lập nghiệp hồi năm nẩm năm trên. Ông quảy bị từ Quảng Đông đi lần vào SàiGòn, rồi theo người quen xuống tuốt miệt dưới nầy từ năm nào cũng không ai nhớ. Lúc đó ông cở ngoài 30 tuổi gì đó chuyên nghề thiến heo và mua bán ve chai. Mọi người ở cái xóm Bến Thế nầy chỉ biết ông xuất hiện và quảy đôi gánh đi thu mua ve chay và thiến heo với cái còi thổi nghe tò te, tò te. Ông đi len lỏi trong các sóc Miên, các xóm người Việt, từ xã Tập Sơn cho đến Bắc Trang. Mọi người không biết ông ở đâu, chỉ thấy ông cứ thầm lặng đi hết vùng nầy qua vùng khác. Tối lại có khi ông ngủ trong chùa hoặc nhà lồng chợ. Một hôm người ta phát hiện ông nằm run rẩy trong cái sạp nhỏ ở ấp chợ Bến Thế. Ông bị cảm vì ban ngày giang nắng tối ngủ ngoài sạp thiếu mùng mền, thiếu chăn gối bị gió lạnh thổi lùa. Ông ngã bịnh.Chị ba Lành đã đẩy ông nằm sấp lấy dầu cù là ba con cọp chà lưng và đánh gió cho ông một lúc thì người ông hơi khoẻ. Chị chạy về nhà mang thêm một tô nước nống bỏ gừng đâm dập và đở lưng cho ông ngồi lên uống cạn. Mồ hôi ông rịn ra, cơ thể ấm lại dần. Mọi người hiếu kỳ tản mát dần vì công chuyện riêng hoặc phải lo cho buổi chợ chồm hổm ở cái ấp Bến nầy.Chị thấy trời sáng, dưới bến mấy chiếc xuồng từ vùng xa như miệt Te Te, Hùng Hoà… bơi tấp vào.Chợ sắp nhóm nên chị nài nỉ ông về nhà nằm cho khoẻ rồi đi đâu thì đi….Không biết vì cảm động trước sự chân thật của chị Lành  hay với lối nói như ra lệnh của chị mà ông ngoan ngoản đi theo chị. Ban đầu chỉ có vậy đó, rồi ông ở luôn lại nhà chị Lành. Chị Lành có một đời chồng trước, nhưng đã đi đâu mất dạng hồi thời thanh niên tiền phong. Có người nói chồng chị đi theo Việt Minh. Chị ở vậy một mình mà không bao giờ thấy chồng chị về một lần nào, cho dù lén lúc.Thét rồi cũng không ai nhắc tới chồng chị nữa.Bây giờ bổng nhiên chị và ông Tàu bán ve chay lại xáp vô một cái rụp, mau như sấm chớp thiệt cũng lạ.Mọi người dân ở cái ấp nhỏ nầy chỉ lưa thưa vài chuc căn nhà vách lá cột tre. Họ sống rất thiệt tình với nhau, it khi hoạnh hẹ chanh chua với nhau, nên chuyện xáp lại giữa hai người vẫn không thấy ai bàn tán nhỏ to gì cả. Hơn một năm chung sống. Hai vợ chồng chị Lành sinh ra một đứa con trai. Sau khi sanh thằng con chị bị bịnh hậu sản và qua đời lúc con chưa đầy tháng. Sau khi chôn vợ xong ông đeo con sau lưng tiếp tục làm nghề thiến heo. Mỗi chiều tối về ông hay ẫm thằng con đi quanh quẩn trong nhà và có khi đi ra phía mộ vợ. Ông ngồi đó rất lâu mới ẫm thằng nhỏ về.

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014

Nhúm tóc còn lại của má

NHÚM TÓC CÒN LẠI CỦA MÁ
Kính dâng hương hồn má.
Má tôi, người mẹ miền đất giồng.Tôi nói như vậy là vì vùng đất nơi má được sinh ra, lớn lên cho đến khi có chồng con và đến cuối đời vẫn ở đây: Miền đất giồng. Gọi là miền đất giồng vì vùng đất ở đây là vùng ven biển. Qua sự bồi đấp của nhiều năm tháng, những con giồng hình cong như lưởi sóng, cộng với sự lắng động của giòng Cửu Long từ vùng sâu chảy về, gặp sức dội của áp lực biển Đông bẻ ngoặc, chia nhánh chằng chịt khắp một vùng rộng mênh mông.Vùng đồng bằng sông Cửu Long được thành hình qua nhiều năm tháng. Một cánh đồng Nam bộ phì nhiêu định hình từ bên trong, ăn dần ra với những con giồng bao giáp biển. Những loại cây rể thân như mấm, vẹt, tràm, ráng, bần…giử phù sa và cát biển làm nên những cù lao, cồn, láng, bãi…dài suốt từ Cà Mau,Trà Cú, Long Toàn, Cầu Ngang…. Vùng đất ngày xưa “Chim kêu,vượn hú” dần dần được di dân từ miền Bắc,Trung, cả những di dân từ Trung Hoa đi qua ngỏ biển tấp vào, cộng lại với dân bản địa Cao Miên, quần tựu thành nhóm dân trộn hoà từ lâu đời, thành một vùng cá biệt: Dân Nam bộ.

Ở Cơi Năm

Ở CƠI NĂM
Tặng N/S Hồ văn L, D/S Khưu Hoàng H và D/S Lâm Khả Đ
Ba chiếc tàu đóng theo kiểu Thái Lan chạy suốt mấy ngày mới tới chổ “Đổ quân”. Chặng đường 2 ngày ba đêm, người tù cải tạo nằm chật nức trên sạp tàu, lù mù trong bóng tối dưới khoang hầm. Mọi người tự hỏi: Đi đâu? Họ đem mình đi đâu? Có vài anh bạn phục vụ cho các cán bộ được lên xuống rỉ tai: Tàu đi về hướng Rạch Giá …tàu ra đến sông Ông Đốc….Tàu chạy chậm lại và cặp đất. Khoang hầm được mở ra. Ánh sáng tràn xuống làm hoa mắt. Một “Anh đội” non chẹt quát xuống: Các anh chuẩn bị đổ quân…Mọi người buồn bã thu xếp gói quần áo và vật dụng cá nhân ngồi lên chờ đợi. Mấy ngày nằm vã với mùi hôi hăng hắc của nước lẩn dầu phía dưới sạp của khoang tàu, gió và ánh sáng lùa vào làm mọi người dể chịu đôi chút…Một cái thang cây được bỏ xuống. Đoàn tù lần lượt leo lên. Ngoài xa xa là một vùng nước mây mù mù. Một anh bạn nói: Ngoài kia là cửa sông Ông Đốc chạy ra biển Đông.

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Bài Thơ Mưa

Treo ngang thác lủ



TREO NGANG THÁC LỦ


1-          Nắng buổi trưa gai gắt dội xuống mái tôn hừng hực. Vủ thức giấc trong một trạng thái mệt mõi đến như đờ đẫn. Đôi mắt nặng trịch chàng muốn mở ra nhưng cứ bị trì hoãn khó khăn. Một vài tiếng động rời rạc và khô khan.Thật khó chịu! Chàng chửi thề một câu nhỏ. Xoay người lại. Mồ hôi dưới lưng ướt láp nháp như bị trét mỡ. Chiếc ghế bố nhà binh kêu kèn kẹt theo cái chuyển mình của chàng. Gió bên ngoài thổi tạt vào làm chiếc Poncho dùng để che nắng khua nghe phành phạch.Vủ thấy hơi dễ chịu và thíp đi  như mê. Đến khi chợp mắt thì trời đã xế chiều.  Ánh nắng tạt vào nhà. Chàng cãm thấy đôi mắt nằng nặng và hơi nhức. Vủ chớp mắt mấy cái nghe như cay cay, rồi đứng dậy đi ra ngoài, lại gần phi nước, một tay cầm cái ca múc nước, một tay vóc nước úp vào mặt, xoa vào cổ. Một cãm giác nhẹ bổng lâng lâng chạy rần từ cổ xuống lưng và dừng lại ở đó. Vủ uốn người về phía sau một cách khoái trá. Trên bầu trời những áng mây thật mõng trôi lênh đênh, thỉnh thoảng một vài nơi trộn màu tạp lục. Trong cái bao la của bầu trời, trong cái rời rạc của buổi chiều, Vủ thấy mình như những áng mây trôi lạc lỏng trên cao, cũng giống như miếng gổ lập lờ trên sông. Nước lên xuống như muốn rả tan, như muốn chìm nghĩm xuống lòng sông, đáy nước. Bùn lầy sẽ chôn lấp trong im lìm. Nỗi mệt mõi và chán chường làm cay đôi mắt, làm khô cứng cổ họng. Chàng thấy mình cô độc trong một thứ hạnh phúc bất chợt đến, tạm bợ chờ tung cánh bay đi. Bao lâu rồi chàng sống trong ngoi ngóp buồn rầu nầy? Vủ thấy như tức giận một cái gì đó mơ hồ không rỏ. Chàng muốn xô đẩy, đạp đổ và bươn chạy đến bất cứ một dấn thân nào đó, miễn sao thoát khỏi cái căn phần phiền muộn nầy.

Ngả rẻ cuộc đời



Ngả rẻ cuộc đời
Viết theo một câu chuyện thật, thêm vài hư cấu.
Tên tuổi nhân vật trong truyện là một ngẩu nhiên do tác giả đặt.
Nếu có sự trùng hợp là ngoài ý muốn tác giã.HTH

           Sau mấy tháng trời bị giam ở trại giam tỉnh Cần Thơ, Vinh bị đưa về tập trung ở hậu cứ Trung Đoàn 33 bộ binh thuộc sư đoàn 21 cũ gần phi trường Trà Nóc.Trong thời gian ở đây anh được vợ tiếp tế đồ ăn theo từng tháng.Lần cuối cùng vào tháng 11 năm 1976 Vinh nhận được giỏ đồ ăn của vợ kèm theo bức thư:
                Anh Vinh yêu quí của em,
          Đây là giở đồ ăn cuối cùng em gởi cho anh…em đã khóc mấy đêm liền với nỗi dằn co đau khổ đến tột cùng để đi đến quyết định…cái quyết định rất khó khăn với em và rất tàn nhẩn với anh: Đó là em quyết tiến một bước nửa, nghĩa là em bỏ anh và đi lấy người khác….Anh đừng vội trách em và mắn nhiếc em vì trong tình thế nầy em không còn chọn lựa nào khác.Như anh đã biết trong thời gian chung sống với anh.Chúng ta có năm đứa con sinh liền năm.Khi anh đi rồi không có gì để lại cho em để lo cho các con và cho anh.Em đã bán hết các tư trang và một số vốn nhỏ để dành để tiêu xài cho việc thăm nuôi anh và nuôi các con thơ dại.Phải chi gia đình ba má em còn thì em có nơi nương tựa…như anh đã biết cả gia đình em được anh hai em bốc đi sáng ngày 30 tháng Tư.Bởi chờ đợi anh mà em đã lỡ cơ hội cùng đi.Em cũng chẳng tiếc rẻ về chuyến đi đó.Nếu không có anh em cũng chẳng đi!Thôi thì cũng là số phận.!
         Gần hai tháng nay em không có tiền để trả tiền mướn nhà vì phải dành để lo cho anh và các con.Ông người Tàu quá vợ, chủ căn nhà mình mướn đã không lấy tiền mướn nhà mà còn phụ giúp em trong mấy tháng gần đây.Ông ấy cám cảnh khỗ nhọc của em.Ông hỏi ý em bằng lòng ở với ông ta thì ông sẽ lo bảo bọc mẹ con em đầy đủ.Ban đầu em tức giận và đuổi ông ta ra khỏi nhà, nhưng chẳng những ông ta không giận mà còn tiếp tục hỏi han và giúp đở em.Mỗi ngày nhìn năm đứa con ăn cháo để nhín tiền mua đồ ăn đem tiếp tế cho anh mà em đau lòng quá….Cuối cùng em gật đầu…
         Anh ơi! vì các con mà em phải hi sinh đời em để cho các con sống được trong thời buổi cùng khổ nầy.Mong anh thông cảm và đừng trách em.Em biết em bỏ anh lúc nầy là vô cùng tàn nhẩn, nhưng để các con chết trong đói rách thì còn tàn nhẩn hơn anh ơi! Thôi chào từ biệt anh.Mỗi tháng em sẽ nhờ chị bạn gởi đồ ăn đến anh…
Tha thứ cho em….
                                                                     Vĩnh biệt anh,
                                                                          Phượng  

NHỮNG ĐOẢN VĂN

BÓNG NHỚ

Anh Hai thường than thở: “Sao cứ mỗi khi Tết về là nhớ nhà quá chừng. Nhà ở đây là chốn quê hương ở Việt Nam. Một nơi mà anh Hai đã bỏ đi gần hơn 40 năm rồi. Hồi đó thời gian sao mà nó dài quá chừng. Năm năm học trường Quận. Năm năm lên trường Tỉnh. Mấy năm trên Sài Gòn. Anh thấy sao mà nhiều kỷ niệm quá…hình như đầy ấp theo những ngày tháng đó. Anh nhớ bạn bè, anh nhớ mái trường, lớp học. Anh nhớ từng con phố, ngỏ hẻm. Anh nhớ biết bao nhiêu chiều thứ Bảy, Chúa Nhật dạo phố Sài Gòn. Anh nhớ hương vị bò bía, nước mía Viển Đông…Anh nhớ chiều công viên ghế đá với tiếng thầm thì của người yêu… Anh nhớ từng cánh đồng và những con sông. Anh nhớ từng ngọn cỏ, cọng rau. Anh thèm những món ăn rất đạm bạc như cá kho tộ, tô canh chua tép với rau nhiếp, mò om. Anh nhớ tô bún nước lèo ngoài đầu chợ Tỉnh. Anh nhớ trái ổi, trái bần ở dưới quê…Anh nhớ từng khuôn mặt trong mái ấm gia đình…Anh nhớ đủ thứ hết. Mỗi lần nhớ là hình bóng những thứ đó cứ lởn vởn trong đầu óc, anh muốn bay về Việt Nam cho thật nhanh…

Rồi một lần anh Hai có dịp về lại Việt Nam. Máy bay quần một vòng từ độ thấp. Anh ngó Sài Gòn ở phía dưới, xe cộ chạy như những đàn kiến bò trên đường. Những ngôi nhà cao, thấp xen lẩn trong ánh nắng ban mai hồng hào. Chiếc máy bay đáp lướt trên đường băng. Anh nhìn bên ngoài còn những dãy rào thép gai và những hầm hố công sự của một thời chiến tranh vẫn còn đó. Bước ra khỏi cánh cửa máy bay.Trời nóng hừng hực. Anh bắt đầu lột áo bớt ra…cho đến khi chỉ còn cái áo ngắn tay mà sao vẫn còn thấy nóng oi cả người. Qua các cửa ải, anh bắt gặp nhiều gương mặt nhìn anh không mấy gì thân thiện. Gặp lại người thân. Anh có được mấy cái ôm thân thiết và nụ cười đầy nước mắt của những người nhà làm anh thấy ấm áp và xúc động vô cùng!

Chiếc xe 12 chổ ngồi mà người nhà mướn từ dưới tỉnh lên rước anh về, chạy trên đường như dồn đống xe hơi, xe gắn máy, cùng khói bụi mịt mù. Anh nghĩ “Chắc như vầy thì làm sao mà anh dám lái xe một mình đi trên các con đường nầy”. Đi qua các đường phố, anh cố nhìn cho kỷ, nhưng chẵng biết đâu là các con phố quen ngày xưa. Anh cứ hỏi hết đường nầy đến đường khác. Thằng em của anh

chỉ trỏ và nhắc các tên đường…nhưng anh không còn thấy bóng dáng nào của những con đường thân quen thuở xưa…

Về tới quê, nơi căn nhà của ba má anh thuở xưa thì vẫn còn nguyên như cũ, mọi thứ có hơi thay đổi đôi chút nhưng tuyệt nhiên nếu nhấm mắt lại anh cũng sẽ đi từ trước ra tới sau bếp…đều nầy làm anh xúc động đến rưng rưng hai giọt nước mắt…

Đứa em dâu nấu buổi cơm với mấy món mà thiếm biết anh rất thích thuở hơn 40 năm trước. Cơm nóng, canh nóng cộng với cái nóng của căn nhà. Anh vừa ăn vừa lau mồ hôi. Đứa em trai hỏi: Uống chút rượu nghe anh …Anh lắc đầu nói: Nóng thấy mồ uống gì zdô…

Suốt hơn gần 3 tuần lể trôi qua, anh Hai có dịp đi đây đi đó. Ở mọi nơi chốn đều đổi thay, không còn như anh tưởng. Anh ăn uống nhiều thứ…nhưng… thấy sao mà không ngon như lúc trước. Cả tô bún nước lèo thịt heo quay mà anh thích nhất cũng vậy…Anh nghĩ chắc tại ở bểnh mình ăn đầy đủ quá rồi đâm ngán …?

Ra Giêng, vào ngày đám giổ ba của anh. Bà con nội ngoại, chòm xóm tới nhà nhộn nhịp. Các bà mỗi người một việc cùng xắng tay nấu nướng ở sau nhà bếp. Cái không khí nồng ấm và hình bóng xưa cứ chạy suốt trong tâm tưởng. Anh hai ngồi nhớ một hồi rất lâu…Anh lấy tay quẹt nước mắt…

Ngày trở lại Mỹ. Chiếc máy bay đáp xuống phi trường. Anh ra khỏi khoang máy bay, bước vào nhà ga với không khí mát rượi. Anh Mỹ đen rà cái pass board xong, ngước lên mỉm cười và nói: Well come back USA…

Chiếc xe hơi thân quen của đứa con ra rước anh chạy trên xa lộ. Anh cảm thấy thoải mái và an toàn vô cùng. Anh Hai hơi đói bụng.Thằng con chở anh đến quán phở quen. Anh ăn ngon lành tô phở gần như cạn nước…

Đêm mới về lại căn nhà ở bên nầy, anh bị mất ngủ vì trái giờ, quen giấc gần hơn cả tháng ở Việt Nam. Anh nằm gát tay lên trán mơ màng…Anh chợt thấy một điều gì đó… hình như là …BÓNG NHỚ vừa hiện ra trong tâm hồn mình…!

H ÌNH NH Ư

Trong thời chiến tranh, anh luôn đối diện với biết bao hiễm nguy của chiến trường. Anh đã chứng kiến biết bao nhiêu đồng đội ngã xuống, biết bao nhiêu đối phương phơi xác trong các hố hầm, biết bao người dân chết oan uổn giữa hai lằn đạn. Anh đã mất đi cái thăng bằng trong cách sống. Anh thiếu vắng thời gian để có cái dịu dàng ấu yếm trong tình yêu, trừ một mối tình trong tuổi còn học trò. Bây giờ anh sống vội vả với những ngày nghĩ phép hoặc những buổi không đi hành quân. Tình yêu tinh khiết dường như không còn ở lại với anh. Anh đến với những cuộc gặp gở bất ngờ. Anh vồ dập với những cơn luyến ái trong hơi men. Lời nói yêu đương chỉ là cái lý giải để anh chiếm đoạt người tình hơn là là sự rung động thật sự của con tim. Từ đó anh vô tình đã để lại bao nhiêu hậu quả cho những người con gái đến với anh: “Nước mắt, sự đau khổ, có cả những hệ lụy trong tai nạn ái ân vội vã đó.” Chiến tranh đã đẩy cuộc đời trai trẻ của anh vào cơn lốc xoấy của cơn lửa táp, đạn vèo. Anh như bị đánh mất bản chất con người của anh trong cơn biến động đó.

Đến một lúc rồi anh cũng phải có vợ. Cưới vợ như là một định kiến của gia đình, thân tộc và định vị lứa đôi của cuộc sống đời thường.

Thời gian trôi nhanh…Anh nhìn về phía trước một đoạn đường lấp ló buổi chiều tàn. Đôi lúc anh quay đầu nhìn về quá khứ. Một thời gian dài hơn 40 làm vợ chồng đã trôi qua trong bao gian truân khốn khó...Bây giờ hai người đã già, không còn đi làm nữa. Con cái đã có gia đình và có cơ ngơi ổn định. Hai bóng già lặng lẻ sống bên nhau trong gia đình càng lúc càng tróng vắng…. Không biết có phải vì biến thái của tuổi già hay vì tính khí khác biệt của mỗi người mà sự va chạm thường xuyên có dịp khoấy lên..? Có một cái lực vô hình nào đó đẩy mỗi người mỗi ngày một xa. Cái xa không phải là khoảng cách mà xa trong tình cảm …? Suốt hơn 2 năm vợ chồng sống chung nhà, nhưng mỗi người mỗi phòng riêng.Sự gìao tiếp với nhau bề ngoài cũng rất bình thường vì bổn phận làm cha, làm mẹ với những đứa con, làm ông bà với những đứa cháu và vì sự giao tế bạn bè thân thích. Nói tóm lại, mỗi người ráng đóng vai trò cho thích hợp với mọi hoàn cảnh. Đến một ngày vợ anh bệnh nặng và tách hẳn về nhà đứa con gái để tiện viêc chăm sóc, thì sự xa cách bị đẩy xa thêm.Thỉnh thoảng anh về bên nhà con gái để giúp đưa vợ đi nhà thương hoặc làm một vài cử chỉ nặng về phần an ủi nghĩa tình, dù sao 2 người cũng có mấy chục năm chăn gối.

Mấy năm liền anh sống trong căn phòng đơn chiếc với những sinh hoạt tự túc châm lo cho mình và thằng con út còn đi học. Thời giờ còn lại, anh tìm quên trên bàn máy vi tính với những bạn ảo trên Net và trên Facebook. Những bài thơ, những bài văn lúc nầy được trải ra nhiều hơn. Khoảng lấp nầy cũng chỉ giới hạn chừng mực nào đó…còn lại nỗi cô đơn của tuổi xế chiều đang còn sức luyến ái, đôi lúc bậc dậy trong anh những cơn thèm khát xác thịt. Anh cũng chỉ dằn lòng lại thôi…

Nhiều lúc ngồi một mình, anh nhìn lên khoảng trời mịt mù sương khói, cánh chim nào đó bay trong trời giá lạnh, về một hướng rất xa xăm…. Quỷ thời gian của đời sống không còn bao nhiêu nữa là hết. Anh chợt thấy buồn buồn cho cuộc đời mình…Anh như cánh chim kia cứ bay đi thầm lặng đến cuối chân trời.Trong một khoảng riêng buồn…anh thấy có một nỗi hụt hẩn rất lớn trong tâm hồn… hình như tình yêu thực sự đã mất trong anh tự bao giờ…!?

CUỐI NĂM XỨ NGƯỜI

Do hiện tượng thời tiết, cả gần hơn tháng nay trời cứ mưa liên tục. Mưa không lớn. Mưa rỉ rả. Gió lạnh lùa ngang cây trơ cành bên ngoài. Bầu trời một màu xám mờ. Trời không băng giá, nhưng những cây loại nhiệt đới được đặt bên trong mái hiên nhà sau thì ủ rủ gần như trân mình, bầm lá, mặc dù được che bởi những mảnh nilong.

Buổi sáng ngồi uống cà phê, nhìn cây mai tứ quí nhú mầm nụ hoa. Tháng cuối năm âm lịch sắp hết. Ừ cuối năm rồi! Cuối năm của một khoảng đời gần hết. Cuối năm chập choạng với những ngày lặng lẻ. Cuối năm với cơn mưa lạnh nơi xứ người. Cuối năm tôi co ro như những cành cây nhiệt đới. Cuối năm chẵng có niềm vui nào trổi dậy trong hồn. Cuối năm lẩn thẩn với mớ nghĩ suy quanh quẩn rồi than thở một mình. Cuối năm xứ người sao buồn quá…!

LẨN THẨN 30

Vợ tôi nói: Năm nay tháng 12 thiếu, không có ngày 30 đâu nghe ông! Có đi đâu chơi nhớ về nhà để cúng cơm mời tổ tiên, ông bà, cha mẹ vào buổi trưa … Em chuẩn bị mâm ngủ quả để cúng mừng vui năm mới. Anh nhớ mua phong pháo đốt lúc Giao Thừa để xóa đẩy hết những đều không tốt của năm cũ. Nhớ là ngày 29 đó nghe! Tôi ừ ừ ...đàn bà có khác…! Cái gì mà phải nhắc nhở ....năm nào cũng vậy mà….! Nhưng tôi chợt nhớ lời bà xã … năm nay không có ngày 30 đó nghe. Ừ…Ừ… không khéo lại quên mất…Tôi thẩn thờ nhớ: Đêm 30 xưa nơi quê nhà trong thời thơ ấu bên mái gia đình êm ấm. Đêm 30 lê bước trên phố khuya với lòng trỉu nặng tình buồn. Đêm 30 nơi trại lính trong thời chiến tranh với rượu nát tàn canh. Đêm 30 nơi “Trại Cải Tạo” sau ngày 30 tháng Tư với nỗi buồn cho một ngày mai vô định! Đêm 30 nơi đất khách với cảm giác buồn nhớ quê hương. Một nửa cuộc đời nơi quê nhà với bao thăng trằm cay đắng. Một nửa cuộc đời bình lặng nơi đất khách quê người với bao nỗi trằn trọc, thao thức về đất nước quê nhàThoáng chốc đã hơn 70 năm làm người!

Năm nay đón Giao Thừa nhầm ngày 29…Tôi chợt thấy thiêu thiếu một cái gì đó…vì không có ngày 30 “Em đến thăm anh đêm 30…còn đêm nào buồn hơn đêm 30…Anh nói với người phu quét đường…Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em”.

SAU NGÀY 30 THÁNG TƯ

Tôi có người anh bà con, ba anh đi kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông hy sinh lúc Hiệp định Geneve vừa ký xong…1954 anh bị đưa ra Bắc lúc anh mới 12 tuổi. Anh thực sự nghĩ cái chết của ba anh bởi lòng yêu nước c ũng nh ư bao nhi êu ng ư ời tham gia kh áng chi ến th ời đ ó. Mấy chục năm ra Bắc, anh bị nhồi nhét lý tưởng Cộng Sản. Họ chèn ép nhân dân và thanh niên miền Bắc vào khung hận thù miền Nam và Đế Quốc Mỹ.Thật sự chủ nghĩa Tự Do của miền Nam và Đế Quốc Mỹ anh chưa bao giờ biết rỏ. Anh bị bưng bít sự thật và chỉ biết qua tuyên truyền là nhân dân miền Nam sống trong áp bức, đói rách, bần cùng…

Tôi được 11 tuổi, sống và lớn lên trong miền Nam. Tôi được đào tạo trong cái nôi Tự Do - Dân Chủ.Thực sự tôi không biết cái giá trị nầy ở mức độ cần thiết là bao nhiêu.Từ lúc nhỏ tôi nghe tuyên truyền chủ nghĩa Công sản là tam vô, là đôc ác, là bần cùng hóa nhân dân.Thực sự tôi không hiểu cái mức độ độc ác của Cộng sản là tới mức nào. Tôi rất mơ hồ khi ngồi trên băng ghế nhà trường, khi vào quân ngũ, cả khi buông súng đầu hàng khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh, Tư lệnh tối cao của quân đội hạ lệnh đầu hàng. Tôi và bạn bè đồng ngũ chỉ tức tối vì nghĩ rằng mình đâu dể bị thua bộ đội miền Bắc! Và thêm nữa…Cả miền Nam chắc cũng ngớ như tôi (Chỉ những người Bắc di cư 1954 là hiểu về Cộng Sản qua các cuộc đấu tố và cải cách ruộng đất lúc đó…)

Sau 30 tháng Tư năm 1975 người anh từ miền Bắc về Nam.Việc đầu tiên là anh quá ngỡ ngàn trước một Sài Gòn diểm lệ. Việc thứ hai là căn nhà của má anh là một căn nhà gạch mà anh phải thốt lên: Căn nhà thế nầy phải là cấp bộ Trưởng mới có được…rồi ngày tháng năm kế tiếp…tất cả đã làm anh từ băn khoăn và rồi đến lúc nói với tôi: Bọn mầy để miền Nam bị mất thật uổn…Bây giờ làm sao lấy lại được…?!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Dương Thu Hương ngồi bên lề đường úp mặt khóc vì một Sài Gòn phồn thịnh mà bị mất vào tay ‘Ăn Cướp”…

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 hàng hóa,vật liệu, lúa gạo miền Nam chở ra tiếp tế cho miền Bắc. Thanh niên nam nữ miền Bắc mơ vào Sài Gòn như mơ đi nước ngoài …

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 nhóm chóp bu lảnh đạo chia nhau làm giàu. Một loại Tư Bản Đỏ mà trong nước gọi là Nhóm Quyền Lợi...sắp bán đứng quê hương cho Tàu….!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 người dân cả nước mất hết Tự Do-Dân Chủ-Nhân quyền…!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975…mới đây nhất một nhà sữ học nổi tiếng trong nước nói đại ý như vầy: “Chế độ Cộng Sản là không tưởng…có đâu mà tiến tới”

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975: AI THẮNG AI….?

Sau gần mấy mươi năm anh em có dịp gặp lại. Anh nói với tôi: “Tao đã bị lừa mấy chục năm khi còn ở ngoài Bắc. Tao bị phản bội sau ngày 30 tháng Tư chính những đồng chí của tao…!.Tôi nói với anh: “Trước đây tôi cầm súng chống Cộng Sản mà chưa biết Cộng Sản thế nào...! Sau ngày 30 tháng Tư, tôi còn mơ hồ về họ..! Lúc tôi biết họ là ai thì đã muộn…Tôi đã bị đánh mât quê hương và bị sống xa tổ quốc…!

Tôi và anh ai buồn hơn ai?


Hoa ơi! Đừng kết trái

Khi mới dọn nhà về, phía sau là một khoảng đất trống.Vợ chồng chúng tôi phát họa một sân sau với vườn rau, cây trái.Vài năm sau, phía sau nhà có vườn rau và cây ăn trái, căn bản là các loại rau ăn hằng ngày: Rau râm, rau húng cây, rau húng lủi, rau dấp cá….Cây ăn trái như chanh, quit, cam, hồng, táo…Thấy đất còn trống chổ nào là tôi tha cây về trồng thêm.Vợ tôi cằn nhằn: “Ông trồng nhiều cây ăn trái, ráng thu dọn lá và mấy trái cây rớt…em lo không kham đâu a..?”. Nói là nói vậy nhưng tới mùa , cây nở hoa, kết trái thì vợ chồng tôi ra vườn sau đi nhìn từng nhánh, từng đóa hoa, chờ cho tới ngày cây đơm trái…nhìn những đọt rau thơm. Chúng tôi hái từng loại trái cây cùng ăn, cùng khen ngon ngọt…Chúng tôi có những cọng rau thơm cho một buổi cả nhà ăn bánh xèo…

Cách đây mấy tuần vợ tôi trở bịnh, lúc tôi còn ở Việt Nam và sắp tới ngày trở về.Tôi biết căn bịnh của vợ tôi trở lại lần nầy khá nghiêm trọng. Tuy nhiên chỉ còn đôi ba ngày nữa, tôi e khó đổi vé bay, nên nán lại…Chỉ việc nầy thôi làm vợ tôi giận hờn và trách cứ…!

Bây giờ vợ tôi phải điều trị lại và phải có sự châm sóc đặc biệt. Con gái tôi nói: “Thôi! Để má về ở với con, con sẽ xin nghĩ vài tháng để lo săn sóc và nấu ăn cho má. Nhà con thích hợp hơn. Khi má khoẻ lại sẽ về nhà ba…”

Mấy mươi năm chung sống. Mấy mươi năm gầy dựng gia đình, nuôi dạy con cái thành người lớn khôn và thành đạt nơi xứ người. Cho dù đời sống chung đụng vợ chồng sao tránh khỏi va chạm, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua…Cái nghĩa tình mấy chục năm gắn bó, làm sao mà dể bức rời.! Đến tuổi hưu, đáng lẻ chúng tôi cùng sống khoẻ mạnh bên nhau để hưởng những ngày còn lại của cuộc đời, cùng chia sẻ vui buồn trong cái quỷ thời gian còn lại không bao nhiêu. Cơn bịnh lần nầy sẽ làm sự sống của vợ tôi đau đớn và bất ổn…Sự kiện nầy làm tôi tan nát cõi lòng và ân hận.

Hôm nay ra vườn sau. Trời vào Xuân đã lâu. Các loại rau nức đất, trổi mình sau mùa lạnh giá, các loại cây ăn trái với chồi non xanh, hoa kết nụ…. Cây cam, cây quít, cây táo… hoa rụng cánh sắp kết trái. …Tôi đi thơ thẩn trong nỗi buồn buồn ray rức. Nhìn lên các cành cây, tôi nói thầm: Hoa ơi! đừng kết trái, năm nầy vắng người vợ thương yêu…Mùa nầy đâu có ai cùng chia sớt niềm vui…!!!

Mùa nầy hoa nở…thôi thành trái

Lòng ta rụng nát những niềm đau

Em ơi! vườn vắng em rồi đó

Hoa trái mùa nầy…Thôi tàn mau!

Cảm giác bềnh bồng

Mùa Đông đến. Khi tôi ngồi uống tách cà phê sáng ngoài hiên sau nhà, nhìn bầu trời như thấp xuống với những đám mây phù thủy vạn hình không rỏ nét. Những cành cây khô trong mù sương đứng trơ trơ, trân mình trong cơn lạnh. Tôi mường tượng một điều gì đó rất xa xăm. Tôi hơi hụt hẩn trong mỗi lần mò về quá khứ.

Bên nhà hàng xóm có tiếng vọng âm thanh của bài hát “Bài Thánh Ca Vô Cùng”. Tôi chợt nghĩ “Mùa Noel” sắp về…Và nhớ về mùa Noel năm xưa…

Trước đây còn đi làm ở một cửa hàng bách hóa. Cứ gần đến Noel là họ mắc dây đèn, trưng bày cây Noel và hàng hóa cho mùa lể gần cả tháng trước. Các món hàng được hứa hẹn là on sale trong ngày 24 tháng 12 và sau ngày 25 tháng 12. Ngày Lể coi như hiện diện ở tôi với chiếc mũ đỏ của ông già Noel để làm dậy lên cái không khí mua bán nhộn nhịp của cái thương hiệu Super Walmart.Từ ngày nghĩ việc về hưu, tôi chỉ lặng lẻ nơi căn nhà, ít muốn giao lưu với ai. Mỗi sáng ngồi uống café một mình. Mỗi ngày lên máy computer để xem tin tức, lướt qua Facebook và viết một vài câu thơ hoặc viết tiếp cái truyện còn dang dở.

Mỗi ngày tôi bềnh bồng với những mớ hoài ức khi nhìn ra ngoài trời mây. Mây cũng bềnh bồng theo từng ý nghĩ chập chùn gợi nhớ...

Khi ngồi trước khung máy. Tôi bềnh bồng với hình ảnh, chữ nghĩa. Tôi bềnh bồng với những nghĩ suy. Tôi theo với những dòng chữ. Tôi theo với ngón tay đưa đẩy con mouse. Tôi theo với cái kéo mủi tên lấp thêm mớ chữ vào bài viết. Ở đó là quá khứ. Ở đó, là hình ảnh của một thời rất xa xưa. Ở đó, là từng chập mây khói bay qua trong cảm giác và hiện rỏ qua dòng chữ. Có khi tôi chợt khóc. Có khi tôi chợt vui. Có khi tôi xao xuyến. Có khi tôi rạo rực. Có khi tôi ngộp thở...Tôi miên mang với từng ngón tay trên phím chữ. Ký ức dội về trong “Dòng Trôi Cuộc Đời”…Bản thảo viết về cuộc đời của tôi.

Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ ngưng tay. Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ hết còn suy nghĩ.Tôi thả thân nằm xuống, xuôi bỏ cuộc đời..! Lúc nầy hồn tôi sẽ bềnh bồng vào cõi hư vô. Hiện tại và quá khứ sẽ chỉ còn ở lại với những dòng chữ bềnh bồng…Không biết có đáng giá gì không? Nhưng ít ra tôi biết, tôi đã làm một điều mà tôi rất thích.Chỉ có vậy thôi…!

LÀM NGƯỜI CHÂN CHÍNH

Viết tặng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Tôi vốn người gốc miền Tây Nam Bộ,…Thuở nhỏ tôi mê văn Hồ Biểu Chánh, tôi khoái văn vẻ của ông Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, sau nầy là Hồ Trường An. Tôi thích cái mộc mạc của người miền Nam, đặc sệt những âm điệu dân dã qua các câu chuyện. Sau nầy khi lớn lên, tôi đọc nhiều tác phẫm của các nhà văn khắp xứ của miền Nam trước năm 1975. Nhưng cái cảm giác ăn sâu vào tâm não vẫn là những tác giã mà tôi thích như nói ở trên. Khi ra nước ngoài tôi mang theo một số tác phẫm còn ít oi sót lại trên kệ sách để ở nhà của ba má ở dưới quê, những trang sách với những chữ in bằng khung in chì trên những trang giấy in đã biến thành úa vàng…Tôi trân quí các quyển sách đó và lâu lâu đem ra đọc…Lúc đọc, tôi bắt nhớ nhiều thứ vụn vặt vào cái thời thanh niên mới lớn của mình, như khi ra nhà sách Khai Trí, đi chộn rộn vào những chiều thứ Bảy qua những kệ sách bên dưới cho tới tần lầu phía trên….Thời gian đó tôi tập sự viết văn, thay vì làm thơ như mọi khi…Tôi muốn viết theo phong cách của những nhà văn mà tôi thích. Tôi viết đâu đó vài cái truyện ngắn…Tôi đọc đi đọc lại thấy kỳ kỳ, rồi xé bỏ vì muốn bắt chước mà không được…văn nó phát ra từ nguồn cảm hứng và thể hiện bản chất tự nhiên của người đó, bắt chước làm gì, mà có được cái giãi gì đâu…?Nghĩ vậy tôi bỏ viết truyện luôn. Sau nầy tôi có viết lại nhưng là từ cách viết nhật ký, rồi quen dần viết truyện ngắn qua cách thể hiện như viết nhật ký…viết từ cuộc sống của tôi và tôi vui vẻ ở lại với dòng viết nầy…

Khi qua Mỹ, vì bận bịu với công ăn việc làm, tôi đã bỏ hết thú đọc sách và bỏ luôn chữ nghĩa. Tôi chỉ đọc thoáng qua mấy tờ báo biếu về tin tức và vài mẫu chuyện cũ in lại. Cho đến một hôm ra nhà sách, tôi cầm lên một quyển sách mỏng với tựa là “Cánh Đồng Bất Tận”. Anh chủ quán ngó về phía anh và nói:Anh mua quyển nầy về đọc đi, anh bạn của tôi mới về Việt Nam mang qua vài cuốn cho tôi bán thử.Vốn là người không ưa mấy quyển sách của các tác giả viết sau năm 1975 vì đa số viết theo chánh sách và chỉ đạo của nhà nước. Tôi tò mò lật đọc vài trang…Tôi lại đọc tiếp, một sự thu hút quá nhanh đến với tôi qua những dòng chữ đặc sệt miền Nam.Tôi ngưng đọc và thầm nghĩ phải mua quyển sách nầy về nhà đọc mới tận hưởng hết những cảm giác mà từ lâu rồi tôi mới bắt lại được…Từ đó tôi đâm mê giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư và viết thư về cho đứa cháu ở Sài Gòn tìm mua các quyển sách mà Nguyễn Ngọc Tư đã xuất bản gời qua bên nầy để đọc. Thời gian sau nầy khi bắt trớn viết lại, tôi hay làm thơ, viết văn và giao lưu trên Net…Cách đây hơn 2 năm, tôi bắt gặp Nguyễn Ngọc Tư trên Face Book và mò tìm thấy Bloggs của cô. Tôi liên kết vào trang Bloggs của Tư và từ đó tôi đọc bài viết của Tư trên Net. Biết cô còn trẻ, sinh sau năm 1975, tôi càng ái mộ cô về cách thể hiện tâm trạng của cô qua các bài viết ngắn, rất đổi đời thường, nhưng phản ảnh được cái xã hội của miền Nam sau năm 1975, nhất là các đề tài quanh quẩn nơi cô sinh sống, đất Cà Mau…Nơi chốn, sau 1975 tôi là một người tù”Cải Tạo”. Đầm mình trong những tháng ngày nơi vùng đất U Minh “Muổi kêu như sáo thổi-Đỉa lềnh như bánh canh”.Thời gian nầy tôi tiếp xúc được với người dân U Minh.Ban đầu họ còn xa cách và hận thù với những người của chế độc cũ, dần dà họ thân thiết và thật sự có cái nhìn khác về những người lính VNCH.Có một dịp ghé nhà một người dân., tôi thấy một em bé cở hơn 10 tuổi, ngồi cậm cuôi viết chữ I,T, một em lớn hơn chắc là chị của bé đang ngồi trả lời vài câu hỏi trong bài văn.Tôi thấy thương cho các em, tới tuổi nầy mới được cấp sách đến trường. Thấy tôi nhìn vào trang sách, em nói:Chú ơi! dùm góp ý với cháu để trả lời câu hỏi nầy “ Trong thời chiến tranh, một anh du kích giết được 4 tên lính ngụy, một anh khác giết thêm 5 tên lính ngụy…câu hỏi:Vậy ta đã giết tổng cộng được là bao nhiêu tên lính ngụy”.Tôi đọc câu hởi với sự khó chịu trong lòng mà không nói gì cả.Tôi buồn buồn cho một thế hệ con trẻ với cái lối dạy dổ lòng câm thù và nuôi lòng câm thù của nhà cầm quyền mới cho các cháu mà thực sự các cháu không biết.Thấy tôi ngần ngừ, mẹ của cháu nói:Mầy ráng làm đi đừng hỏi chú ấy…!

Thời gian trôi qua, bây giờ tôi đọc Nguyễn Ngọc Tư trên Net, tôi chợt nhớ về chuyện cũ, vào thời đó chắc cô cũng chỉ vài tuổi và cũng từng học như vậy khi đến tuổi đi học…Bây giờ cô lớn lên, cô thực sự thấy bao điều của vùng đất cô ở, những thay đổi quá ngao ngán của một xã hội “Ưu Việt”mà sản sinh ra những con người quá dã man, những con người cho là vĩ đại mà rất đốn hèn…Những bài viết của cô làm tôi say mê đọc. Với một gốc nhìn không quá bi quan về những mầm non trổi lên mạnh mẻ trong bùn đất, bật lớn tươi tắn dưới ánh mặt trời chân lý, làm một con người chân chính trong một xã hội đầy dẩy bất lương.


MÙI TẾT

Hồi còn nhỏ, ở quê nhà…Lúc đó tôi cỡ hơn 10 tuổi.Mỗi năm cứ vào gần hết tháng 12, gió từ cánh đồng phía tuốt ngoài ruộng, sau nhà thờ Tin Lành thổi về với mùi rơm rạ còn mới.Mùa lúa vừa gặt xong còn trơ những gốc rạ và những vũng nước bùn.Cái mùi nồng nồng, hăng hắt đưa vào hai cánh mũi của tôi.…Gió từ bờ sông phía bên kia nhà lồng chợ, cũng đưa thêm về cái man mát gay gây. Những cơn gió cuối năm đôi khi thốc mạnh làm cuộn lên những dề cát cuốn ụp vào người, tôi bụm hai tay che mắt. Lúc đó, tôi nôn nao trong lòng vì biết rằng Tết sắp về…Ba má sẽ sắm cho tôi bộ đồ mới.Tôi sẽ có một mớ tiền lì xì từ ba má và bà con thân thuộc…

Bọn trẻ con chúng tôi thì mừng rở, còn người lớn thì cứ than thở : “Mới đó mà Tết tới nữa rồi…!”. Người lớn thi tất bật gồng gánh, buôn bán quanh năm…công việc cứ bề bề ra, lo chưa xong thì Tết lại đến. Bọn con nít như chúng tôi thì lại mong Tết về…đâu biết gì mà lo…

Gần sát ngày Tết, mặc dù vẫn còn bận rộn với công việc buôn bán, má tôi cũng dành thời gian lo ngâm gạo, ngâm nếp, phơi lá chuối để gói bánh ích, bánh tét. Chưng xong bánh tét, bánh ít đem treo trên giàn, thì đến lo đánh bột làm bánh bông lan…

Lúc còn nhỏ, tôi thường quanh quẩn bên má để giúp má hoặc để má sai vặt. Là đứa con trai lớn trong nhà, tôi thấy má làm một mình cực quá nên không nở bỏ đi bắn cu li với bạn bè mà ở nhà phụ một tay với má. Nồi bánh Tét xôi ùn ục…má kêu tôi thêm củi, tôi đút từng thanh củi vào lò. Má mở nấp nồi thăm chừng. Khói bốc lên nhiều, má nghiêng đầu tránh hơi nước nóng, lấy cây đủa dài xốc trở. Mùi lá chuối xông lên nghe thơm phức. Gần ngày Tết hơn nữa, má cân bột, đếm trứng để làm bánh bông lan, thì tôi phụ đánh trứng, đánh bột. Công việc phụ trợ của tôi được má thưởng cho ăn mấy cái bánh thử nóng hổi hoặc mấy cái bánh bông lan quá lửa, hơi đen đen nhưng thơm phức mùi vanila.

Ba bớt đi giao hàng vì cận Tết, ngồi tính sổ sách cuối năm. Hai bên trước cửa nhà, ba đặt hai chậu bông cúc nở vàng.Trên bàn thờ thì ba chưng bông vạn thọ. Cả nhà tôi thơm mùi bánh, mùi hoa, mùi nhang.

Người lớn ai ai cũng xem ra bề bộn lo lắng, còn bọn trẻ chúng tôi thì thấp thõm đợi ngày 30 Tết được tắm rửa sớm hơn mọi ngày và được ba má để sẳn bộ đồ mới cho ngày mai mặc đi chơi.

Đêm 30 má lo sẳn một dĩa trái cây “Cầu, Dừa, Đủ, xoài(Xài)”và một bình cấm bông vạn thọ. Đúng 12 giờ khuya, phía bên nhà thờ Tin Lành giựt chuông tinh toong. Ngôi chùa Phật phía bên sông đánh trống, bổ chuông in ỏi. Má lâm râm khấn vái trước bàn thờ đặt trước sân. Ba đốt dây pháo đỏ treo trên nhánh cây trước nhà, châm ngòi nổ đì đùng…Cả xóm chợ đâu đâu cũng đì đùn tiếng pháo.Tụi con nít chạy hết nhà nầy qua nhà khác lượm pháo lép hoặc chưa nổ kip bỏ vào túi áo…Có đứa vô ý bỏ vô cái pháo còn đang cháy ngòi, pháo nổ làm cháy áo, phỏng bụng.

Mùi Tết, mùi nhớ quê hương. Mấy chục năm rồi xa xứ. Khi hết tháng 1 mùa Đông còn đang lạnh, máy sưởi trong nhà chạy suốt đêm ngày. Căn nhà trống hoe.Vợ chồng còn tất bậc với công việc ở hảng xưởng. Con cái thì đi học….Đến cận ngày Tết Ta thì mới chạy ra chợ mua bánh chưng bánh tét và vài chậu bông đem về chưng bàn thờ. Chuẩn bị nấu vài món ăn truyền thống như thịt kho, dưa giá…Mùi vị ngày Tết không còn …chỉ còn là nỗi hoài nhớ…Khi qua đêm trừ tịch, hai vợ chồng ngồi nhắc chuyện ngày xưa. Đêm 30 đi qua…Ngày mai lại tiếp tục đi làm, con cái đi học. Bàn thờ cúng cơm ông bà chỉ là cái bằng chứng để lại với khói nhang thơm nhẹ…Mấy đứa nhỏ còn cằn nhằn “Ba má đốt nhang nên mở cửa… Tụi nhỏ sợ khói nhang làm ngộp thở và hôi nhà…Kêu tụi nó khấn vái trước bà thờ ông bà thì tụi nó chỉ đốt một cây nhang, chấp tay xá xá cho qua việc. Có khi chúng đi làm, đi học thì chỉ hai vợ chồng dọn bàn cúng lạy…mà cũng chỉ nán lại trước bàn thờ vài phút rồi đi lo công việc khác.

Người lớn thì cố giữ lại truyền thống Tết được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu.Còn tụi nhỏ thì…khó quá! Tôi đâm nghĩ “Khi đám già cuốn gói về đất hết thì chắc tụi nó cũng quên cái vụ Tết nhứt nầy “Thật ra thì tụi nhỏ đâu có cái mùi Tết như mình có hồi từ thuở nhỏ đế mà nhớ…!

HỐI HẢ CUỐI ĐỜI

Trong đời người có biết bao nhiêu lần hối hả. Có những hối hả lo toan, nếu mình chưa hoàn tất với cái mức quy định của công việc hoặc thời gian thì mình có thể làm tiếp sau đó.Tuy nhiên có một sự hối hả mà mình phải hoàn tất, nếu không thì mình sẽ không có cơ hội để hoàn tất. Đó là sự hối hả của những ngày gần cuối cuộc đời. Quỹ thời gian của cuộc sống không còn bao nhiêu.Sự bất chợt rủi ro của tuổi già có khi vô chừng, khó đoán, cho nên sự hối hả như một điều thúc đẩy người tôi cố nghĩ, cố lọc lựa những gì mình cần phải hoàn tất trong khi có thể làm được, còn chừa một khoảng rủi ro nào đó mà thần chết giáng xuống mình bất thình lình.Cái quan trọng mà tôi phải làm trước đó là món nợ văn chương vướng lụy mấy chục năm qua, từ lúc biết làm thơ, viết nhật ký của tuổi 15, cho đến nay tóc đã nghiêng màu trắng. Cuộc bể dâu đã làm cuộc đời tôi nổi trôi thăng trầm. Cùng với thăng trầm đó là những dòng văn, những dòng thơ được trải ra trên giấy năm xưa và trên dòng Net ngày nay.

Tôi muốn nó ở lại đời khi tôi ra đi.Tôi muốn nó ở lại với thân quyến, bạn bè và theo linh hồn tôi về tận miền miên viển nào đó.

Tôi viết vì tôi, vì người thân và bạn bè.Tôi không ham muốn làm nhà văn, nhà thơ.

Tôi là một người muốn trải lòng ra để giải tỏa nỗi lòng cho chính tôi và chia sẻ với những người thương mến tôi bằng chữ nghĩa.Còn lại những thứ khác, nếu tôi chưa làm hết thì có người khác làm thế cho tôi.

Tôi muốn chính tôi phải hoàn tất những dòng chữ mà tôi đã viết, thành từng tập.

Tôi muốn được nhìn thấy nó đã thành hình.

Chỉ duy nhất có điều nầy làm tôi hối hả để hoàn tất trước lúc chia tay với đời sống nầy.

TÌNH NET

Ngày xửa ngày xưa, lúc còn mài đủn quần trong lớp học. Lúc đó khi yêu nhau người ta thường viết thư trao đổi tình yêu qua trang giấy học trò, kha khá hơn nữa là những mảnh giấy màu mõng. Thông thường rất kín đáo trao cho nhau bằng tay chứ ít khi gởi bằng thư từ, vì sợ bị lộ Khi ba má bắt được thư thì có mà bị tẩm quất hay la rầy một trận: “Còn nhỏ mà không lo học hành…ở đó mà yêu…Từ nay phải chấm dứt nghe con….phải lo học hành trước đã…” nghĩa là cha mẹ có quyền cấm con cái đi vào đường yêu đương và dỉ nhiên mấy tờ giấy viết sẽ bị xé nát và cho vào sọt rác. Tình yêu trai gái thuở đó cũng thường chỉ quanh quẩn trong xóm làng, quẩn quanh nơi phố chợ, ít khi xa ngàn dậm…? Với đà phát triển nhanh của khoa học qua các bàn máy vi tính và qua hệ thống Net, sư liên kết của con người vượt xa khoảng cách, vượt biển trời bao la để tìm đến nhau qua E-mail, tin nhắn. Các bậc cha mẹ ngày nay không còn kiểm soát con cái theo cái kiểu ngày xưa nữa, mà có kiểm soát cũng không được, đành phải chấp nhận một cách miển cưởng, bó tay, đành chịu…!

Các trang nối kết như hệ thống của các nhóm trên yahoo.com các trang mạng liên kết như facebook…đã làm mọi người trên khắp thế giới gần nhau hơn, thư từ, tin nhắn, hình ảnh chỉ chuyển trong tích tắt….Từ đó hình thành những mối tình ảo, vượt không gian mà yêu nhau. Sự trao đổi đôi lúc màu mè công chúng (public) sau đó chuyển qua nơi kín đáo hơn bằng Chát (Messenger). Có nhiều mối tình Net đến với nhau dịu dàng trên Net và rồi sau đó hẹn hò gặp mặt nhau, đôi khi hợp ý thì tiến tới hôn nhân thật sự, cũng có những quái quâm vở khóc vở cười khi đối diện với sự thật phủ phàng, hình em, anh trên Net thì quá đẹp…hoặc trí tưởng tượng về người yêu quá toàn vẹn, khi gặp nhau bị vở mộng…Chẳng hạng nàng hoặc chàng đi đứng cà thọt, ăn nói thì ấp a ấp úng ngọng nghệu…Có những mối tình chỉ cốt bẹo kéo nhau để cho qua buổi trng vắng của những ông bà ở tuổi về hưu, có nhiều thời giờ ngồi trước máy vi tính chát để đốt thời gian. Cũng có những cảnh ông bà đang sống ung dung với nhau mà lại ngoại tình trên Net. Ông một cái máy, bà một cái máy mặc tình mà chát yêu, chát quái. Mỗi người tìm thời gian thích hợp mà chát để khỏi bị lụy phiền, để khỏi bị khám phá…!Tân tiến hơn, mỗi người có một cái máy điện thoại thông minh…lúc nầy mặc tình mà liên kết, ở mọi nơi, ở mọi lúc, tha hồ ông chát, bà chát, con chát, rể chát, dâu chát…mọi người đều có cơ hôi ẩn náo riêng tư mà liên kết với nhau.

Tình yêu trên Net lại hình thành nhiều tình huống khác nhau và từ đó nở rộ ra các nhà thơ, nhà văn bất đắc dỉ với những bài thơ, bài văn gạ trao tình yêu vô cùng lãng mạng, đôi khi vô cùng Sến hằng ngày dán lên các trang mạng. Xin mở ngoặt phân ra các bậc đàn anh, các bạn văn, thi sĩ thực thụ dán lên nhiều bài viết rất giá trị để trao đổi với nhau. Nhờ đó tôi hân hạnh gặp được nhiềc bậc đàn anh, đàn chị v à bạn bè mà tôi rất quý mến. Cũng từ trên Net, có nhiền vụ lừa đão tình yêu….phờ phỉnh tình yêu xảy ra…tình ảo mà….có ai kiểm tra được đâu?! Mà thực ra có chết thằng Tây nào đâu với mấy dấu hiệu trái tim gởi cho nhau kèm qua các lời nói âu yếm…sống động hơn là những con vật nhả ra hằng hà sa số trái tim yêu qua ảnh gif. Có mất đồng nào khi gởi những bó hoa hoặc quà cáp trên Net. Ôi thời đại tân tiến! Ôi thời đại tình Net, tình Ảo… Thôi thì cứ phất phơ vào Net để đốt thời gian nhàn hạ. Mua vui cũng được một vài trống canh!Phải không các bạn?


MỘT MÌNH

Từ ngày bà xã tui xách gói đi ngủ riêng tới giờ …tôi cảm thấy mình thoải mái hơn. Chẵng là vì, khi lớn tuổi lúc trở trời trở gió mình mẩy ê ẫm, xương cốt hết đau khớp nầy, chạy qua khớp khác. Đêm ngủ chung giường với bà xã nhiều khi lấy tay đấm chồ nầy, bóp chổ khác trên cơ thể mình, hoặc xoay trở lặn lộn cho đở mõi…Bà xã tức mình càu nhàu “Cái ông nầy làm gì mà rục rịch sáng đêm làm sao người ta ngủ được!”.Tránh lời rên rỉ của bà xã…tôi cố gắng trân mình chịu đau hoặc trở mình nhè nhẹ. Nhưng làm sao khỏi nhúc nhích đôi chút được…!Mặc dù tôi đã mua chiếc nệm theo quảng cáo: Ông nhúc nhich–bà không bị nhúc nhích. Bà xã của tôi vẫn phàn nàn vì sự lăn trở của tôi.Tôi hơi quạu bởi vì mình cố gắng chịu đựng cái thân thể bất tuân như ý rồi mà còn bị cằn nhằn hoài. Tôi nói: “Tại bà khó ngủ chứ đâu phải tại tôi…hồi nẫm đôi khi ngủ say sưa bà còn ngáy khò kho.Tui có nói gì bà đâu? Vợ tôi nói: Hồi đó khác, bi giờ nầy khác…!Tôi chịu lép vế nằm làm thinh.

Ban đêm vì không ngủ được tôi cứ ngồi bật dậy đi tiểu…cái gì quá kỳ cục, cứ đi tiểu vừa xong vào giường nằm một chút lại muốn mắc tiểu nữa….Bà xã cầu nhàu “Cứ leo lên, bước xuống giường và dội cầu hoài làm sao ai mà ngủ cho được…!Đi khám bác sĩ đi.Coi chừng bị ung thư tuyến tiền liệt đó.(Chuyện nầy khỏi lo vì tôi đi khám rồi…tại uống nước nhiều-khi ngủ hỏng được thường là như vậy…).

Chưa kể nhiều khi xem một cái phim hay, mình muốn coi cho hết, bã rên rỉ: Làm ơn tắt cái TV cho người ta ngủ...ngày mai còn phải đi làm.Tôi cụt hứng tắt cái TV.

Còn nữa, tôi hay hứng tình với nàng thơ. Khi một ý thơ nào đó hay hay hiện ra trong đầu, tôi bậc cái máy vi tính lên và ngồi hằng giờ để làm thơ hoặc viết truyện… luôn thể đọc mail của bạn bè gởi cho mình và trả lời, đôi lúc đọc nhiều bài thơ hoặc bài viết hay mình góp ý. Vợ tôi lại than thở tiếp vì mấy tiếng cộc cạch của bàn phím khi tôi gỏ chữ.

Nhiều lúc bà xã tôi lại tò mò xem tôi làm cái gì trên máy vi tính mà ngày nào cũng mở máy và ngồi ngâm rất lâu. Vợ tôi nghe câu chuyện mấy lão niên cứ lên mạng chát chiếc với mấy em “Cỏ Non” ở Việt Nam…lâu ngày đâm mê mệt và hẹn hò kiếm chuyện về bên đó mà du dương.

Có một ông sau khi đi về Việt Nam nhiều chuyến, khi trở lại Mỹ tuyên bố ly dị bà vợ tắm mẵm ở bên nầy. Dĩ nhiên của cải do vợ chồng gầy dựng bấy lâu bị chia tứ tán. Con cái lớn khuyên cha, nhưng vì quá mê “Cỏ Non” ở Việt Nam rồi nên nhất quyết không nghe ai hết. Chàng già về xứ Việt làm đám cưới linh đình và bảo lảnh em sang Mỹ. Bà vợ mất một căn chung cư… để ông chồng đem con vợ nhí sang hú hí. Buồn quá bà đâm ra điên điên bởi lẻ ông chồng của bà rất hiền lành, sống mấy chục năm ông luôn là người chồng gương mẫu.Hai vợ chồng mở tiệm Nail &Tóc, bà bận rộn với việc làm, ông tận tụy giúp bà từ việc lớn đến việc nhỏ.Hai người chí thú lo làm ăn nên mua được một căn nhà và sau đó là một dãy chung cư gồm 10 căn hộ.Suốt ngày ông cứ quanh quẩn ở tiệm giúp bà điều hành công việc.Tối đến ông làm sổ sách. Bà rất thương yêu chồng và tin chồng hết mực…nhưng ở đời ai đâu có ngờ! Người lù đù “Vát lu mà chạy” ít nói như ông chồng bà lại giở chứng hồi nào mà bà không biết được.Chừng đổ bể ra sau mấy chuyến về thăm bà mẹ già của ỗng còn ở Việt Nam…Ông đòi ly dị và chia của.Bà giử căn nhà và cái tiệm, còn ông thì giử cái chung cư.Bà vô cùng đau khổ vì sự bất ngờ nầy nên đâm ra như người mất trí. Bà tức khí vì mất ông chồng thương yêu rất mực của bà“ Đồ con “quỉ cái cướp chồng bà còn nhởn nhơ hưởng phần mồ hôi nước mắt của bà…trước mắt bà!”.

Tôi không đồng tình với mấy việc như vây.Vợ chồng tay dắt, tay níu con thơ với hai bàn tay trắng sang đây.Vợ chồng xây dựng gia đình từ con số không.Tính từ thời gian bước đầu đến khi cơ ngơi khá ổn định, con cái học hành đỗ đạt và có việc làm, đó là công lao lặng lôi thân cò của vợ chồng tôi trên đất mới nầy.Với tôi…tôi rất trân quý những ân tình của vợ tôi đã khổ cực từ lúc đời tôi đầy gian nan khi còn trong nước và đã góp tay khó nhọc cùng tôi từng năm tháng xây dựng tổ ấm nơi xứ người nầy. Ai mà lại vô cảm-vô tâm phụ rảy ân tình nầy.Tuy nhiên “Ớt nào là ớt không cay- vợ nào là vợ chẳng hay ghen chồng” Với sự nghi ngờ và có thể cũng để đề phòng trước vì thấy tôi sao cứ tối ngày lên mạng hoài nhiều lần vợ tôi nhìn vào khung màn ảnh máy vi tính phía sau lưng tôi để dò xét.Tôi nghĩ chắc mẫm là bà xã tôi nghi ngờ tôi chát chiếc với ai đó, có bao giờ bà xã tôi tò mò để xem văn vẽ của tôi đâu!.Chưa bao giờ thơ văn của tôi lọt vào đôi mắt của nàng…! Mặc tôi mơ mơ, màng màng những chuyện năm xửa năm xưa với nhiều hồi tưởng qua những dòng thơ tình sướt mướt hay tưởng tượng một câu chuyện tình lâm ly nào đó để kết thành văn vẻ đậm tình éo le–lâm ly hoặc đổ vỡ.Tôi đoan chắc vợ tôi chẳng thèm ngó ngàng đến thơ văn của tôi cho dù có đem quyển thơ hay quyển văn của tôi đặt trước mặt.Nhưng từ ngày bà xã tôi giao lưu với bạn bè trong trang Web Trung Học Chợ Lách…tôi có bài vỡ tham gia.Bạn bè của vợ tôi đọc bài của tôi không biết khen thiệt hay chỉ động viên…bà xã cũng dừng mắt đọc thơ văn của tôi cho biết sự tình….Cám ơn trang Web vì tôi có một đọc giã bất đắc dĩ:VỢ TÔI!…!

Người ta thường nói: Sự thành công của người chồng luôn luôn có bóng dáng của người vợ hổ trợ. Tôi nói trại ra: “Sự thành công của các người cầm viết (Văn-Thơ-nhạc-kịch ) phía sau luôn luôn có bóng dáng của các người vợ thông cảm và chịu đựng”. Trong một cuộc phỏng vấn, vợ của nhạc sĩ Anh Bằng có nói: Ổng đi đâu thì đi và làm cái gì thì làm…khi về nhà ổng là của tôi là được rồi…”.Riêng bà xã tôi thì nói: Ông làm cái gì thì làm…nếu lựng bựng gì đó với ai… hể tôi biết được là tôi cho ông đi tàu suốt.Hồi trẻ mình rơi có người hứng lấy còn bây giờ già khú đế rồi ai mà lượm…!Lời phán hơi nặng ký như vậy…có ngán không quý bạn…? Tôi ngán lắm đó…cho nên néu lỡ ăn vụn thì chùi miệng liền hà!

Từ lâu tôi có thói quen …khi đang say sưa với những dòng thơ hoặc lời văn đang hiện ra trong đầu rồi gỏ những dòng chữ hiện ra trên màn ảnh mà bị ai đó dòm ngó là tôi mất hứng và bị khựng lại…Một hôm không dằn được cơn bực bội .Tôi nói với vợ tôi: “Từ nay tôi muốn bà để tôi yên khi ngồi vào bàn máy vi tính làm việc nghe...! Bà xã giận bỏ đi một nước và nói: Ừ tôi đi ngủ riêng…để ông thanh thơi muốn làm gì thì làm…! Và vợ tôi thu dọn ra phòng riêng từ hôm đó.

Chúng tôi ngủ cách ly nhưng sinh hoạt gia đình cũng đều hòa. Mấy đứa con biết lý do má tụi nó ra riêng không phải vì chúng tôi giận hờn nhau mà vì lý do tôi lớn tuổi khó ngủ cứ cựa quậy lung tung làm má tụi nó ngủ hỏng được…!

Mấy ngày đầu ngủ một mình, tôi thấy thiếu thiếu hơi hướm ba xã…vì mấy chục năm ngủ chung giường với nhau rồi chớ bộ …!“Thia thia quen chậu-Vợ chồng quen hơi” mà. Nhiều đêm giật mình mở mắt nhìn bên cạnh, thiếu bà xã cũng thấy lạnh lẻo cõi lòng “Ghe lui còn để dấu dằm-Người thương đi vắng dấu nằm còn đây”.

Mấy lúc sau nầy bà xã tôi hay đi chùa nghe các thầy thuyết pháp. Hồi trước ăn chay một tháng 4 ngày…dần dà ăn gần suốt tháng. Bà xã tôi khoe:Từ ngày ăn chay đến giờ thấy trong người được khoẻ hơn: đường, mỡ, trong máu giãm, ấp xuất huyết giãm.Thế là vợ tôi gần như trường chay. Phòng của vợ tôi gần như là tịnh thất…

Vợ tôi ăn chay, đọc kinh, đi chùa và ngủ chay. Dỉ nhiên tôi cũng đành ngủ chay dài dài…!Tôi tập ăn chay để giãm nhiệt cơ thể cũng chưa đến nỗi của tôi…hơi ngặt chứ bộ…!Nhưng lâu dần cũng quen!

Một mình trong căn phòng rộng, trên chiếc giường King-size(Giường lớn dành cho vợ chồng ngủ chung) tôi thoải mái tự tung tự tác: Đấm lưng, đấm bóp chân tay thả ga, đôi lúc ngồi lên nhấm mắt tọa thiền hoặc uốn éo cho phẻ gân cốt ...không sợ ai rầy rà. Nhiều phim hay cứ thoải mái xem cho tới hết…Bật máy vi tính cộc cạch thỏa thích để làm thơ tình, viết truyện yêu đương… Khi ngồi vào bàn cầu ...đọc báo, đọc thơ cũng không ai hối thúc.(Cái thú đọc mọi văn tự mà tôi vớ được khi vào nhà vệ sinh là một thói quen của tôi khó mà bỏ được). Kể ra Một Mình đâu phải cô đơn...!

Huỳnh Tâm Hoài

Cali đầu năm dương lịch 2014