Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Ngả rẻ cuộc đời



Ngả rẻ cuộc đời
Viết theo một câu chuyện thật, thêm vài hư cấu.
Tên tuổi nhân vật trong truyện là một ngẩu nhiên do tác giả đặt.
Nếu có sự trùng hợp là ngoài ý muốn tác giã.HTH

           Sau mấy tháng trời bị giam ở trại giam tỉnh Cần Thơ, Vinh bị đưa về tập trung ở hậu cứ Trung Đoàn 33 bộ binh thuộc sư đoàn 21 cũ gần phi trường Trà Nóc.Trong thời gian ở đây anh được vợ tiếp tế đồ ăn theo từng tháng.Lần cuối cùng vào tháng 11 năm 1976 Vinh nhận được giỏ đồ ăn của vợ kèm theo bức thư:
                Anh Vinh yêu quí của em,
          Đây là giở đồ ăn cuối cùng em gởi cho anh…em đã khóc mấy đêm liền với nỗi dằn co đau khổ đến tột cùng để đi đến quyết định…cái quyết định rất khó khăn với em và rất tàn nhẩn với anh: Đó là em quyết tiến một bước nửa, nghĩa là em bỏ anh và đi lấy người khác….Anh đừng vội trách em và mắn nhiếc em vì trong tình thế nầy em không còn chọn lựa nào khác.Như anh đã biết trong thời gian chung sống với anh.Chúng ta có năm đứa con sinh liền năm.Khi anh đi rồi không có gì để lại cho em để lo cho các con và cho anh.Em đã bán hết các tư trang và một số vốn nhỏ để dành để tiêu xài cho việc thăm nuôi anh và nuôi các con thơ dại.Phải chi gia đình ba má em còn thì em có nơi nương tựa…như anh đã biết cả gia đình em được anh hai em bốc đi sáng ngày 30 tháng Tư.Bởi chờ đợi anh mà em đã lỡ cơ hội cùng đi.Em cũng chẳng tiếc rẻ về chuyến đi đó.Nếu không có anh em cũng chẳng đi!Thôi thì cũng là số phận.!
         Gần hai tháng nay em không có tiền để trả tiền mướn nhà vì phải dành để lo cho anh và các con.Ông người Tàu quá vợ, chủ căn nhà mình mướn đã không lấy tiền mướn nhà mà còn phụ giúp em trong mấy tháng gần đây.Ông ấy cám cảnh khỗ nhọc của em.Ông hỏi ý em bằng lòng ở với ông ta thì ông sẽ lo bảo bọc mẹ con em đầy đủ.Ban đầu em tức giận và đuổi ông ta ra khỏi nhà, nhưng chẳng những ông ta không giận mà còn tiếp tục hỏi han và giúp đở em.Mỗi ngày nhìn năm đứa con ăn cháo để nhín tiền mua đồ ăn đem tiếp tế cho anh mà em đau lòng quá….Cuối cùng em gật đầu…
         Anh ơi! vì các con mà em phải hi sinh đời em để cho các con sống được trong thời buổi cùng khổ nầy.Mong anh thông cảm và đừng trách em.Em biết em bỏ anh lúc nầy là vô cùng tàn nhẩn, nhưng để các con chết trong đói rách thì còn tàn nhẩn hơn anh ơi! Thôi chào từ biệt anh.Mỗi tháng em sẽ nhờ chị bạn gởi đồ ăn đến anh…
Tha thứ cho em….
                                                                     Vĩnh biệt anh,
                                                                          Phượng  


         Đọc xong bức thư, Vinh ôm đầu và gục khóc đau khổ.Anh ném thức ăn vung vãi ra ngoài sân.Các bạn cùng láng ngạc nhiên hỏi Vinh.Anh nhầu nát bức thư ném xuống đất: Con vợ tôi bỏ tôi đi lấy thằng Tàu nào đó rồi…Vinh ngồi bất động như mình bị rơi từ trên cao xuống vực thẫm...
      Sau một lúc anh em quay quần hỏi han và an ủi, Vinh lấy lại bình tỉnh và kể lể tự sự cho các bạn đồng cảnh tù nghe. Một anh bạn nói: Vợ mầy rất can đãm.... đáng tôn trọng.Vợ mầy hy sinh đời mình để lo cho các con mầy…Thôi đừng buồn…Có nhiều bà không nói mà âm thầm cấm sừng thì sao...?!
       Sau mấy lần chuyển trại từ U Minh đến Rạch Giá rồi đến Xuân Lộc.Vinh được thả về năm 1988.Sau khi ra trại anh về thẳng nhà ba má ruột của mình ở ngoại ô tỉnh Mỹ Tho. Vài tháng sau đó Vinh về lại Cần Thơ để dò tìm tin tức vợ con xem thế nào thì anh biết gia đình người Tàu nầy đã đóng tàu vượt biển hồi năm 1980 mang vợ anh và 5 đứa con cùng đi. Vinh buồn rầu nhớ nhung vợ và các con, nhưng anh thấy giờ đây Phượng cùng các con anh chắc chắn sẽ có đời sống tốt.Các con anh sẽ có tương lai sáng sủa hơn.Vinh quay về quê nhà sống hẫm hiu với khung vườn và mảnh ruộng …anh phó mặc cho thời gian trôi qua với những cơn say mù trời tối mắt.

        Vinh được anh em cho tin về việc chánh phũ Mỹ có chương trình HO để đem các sĩ quan cũ của chế độ VNCH sang Mỹ.Anh nộp đơn xin ra nước ngoài theo diện HO, nhưng cũng rất hoài nghi về chuyện nầy. Tuy nhiên từ đầu năm 1990 đã có đợt đi đầu tiên và kế tiếp.Vinh mong ngóng chạy lên Sài Gòn với nhóm sĩ quan cũ hỏi han tin tức, bàn bạc chuyện gì sắp đến cho tương lai ở đất mới….Đây là một sự thật chứ chẳng còn là điều hoài nghi!
       Cuối cùng anh được công an xã kêu lên trình diện. Khi thấy anh bước vào văn phòng,tên công an niềm nở đưa cho anh cái giấy của Bộ Nội Vụ cho anh đi xuất cảnh sang Mỹ với diện HO.Anh cầm mảnh giấy với cơn xúc động mảnh liệt….một nỗi mừng vui như bay bổng lên không.Anh thấy mình như chơi vơi giửa vùng mây bạc.Anh muốn hét cho thật to,anh muốn ôm chặt từng thân cây ngọn cỏ quanh con đường dẩn về nhà.Anh sẽ được giải thoát khỏi nơi chốn ngục tù nầy.Ngày trước anh tự chui vào trại tù “cải tạo…”khi được thả ra, anh những tưởng sẽ được khá hơn…Nhưng anh đã lại lầm một lần nửa.Cái nhà tù lớn ngoài xã hội còn nhẩn tâm và tàn khóc hơn trong trại. Ở trong trại tù “cải tạo”chung quanh là anh em cùng cảnh ngộ.Mọi thứ gần như giống nhau. Còn bên ngoài nầy là một xã hội với sự phân cách đối xử với những người tù mới về từ phía chánh quyền và một số con người vô học ngoi lên từ sau mùa “Cách Mạng” lên mặt dạy đời…Thật sự còn khiếp đãm hơn! 
       Vinh đến Mỹ khoảng năm 1993 và được định cự tại SanJose với sự bảo trợ của một người anh bà con di tản hồi năm 1975. Điều bất ngờ nhất là trong buổi nầy anh gặp lại Phượng và các con anh.
                             *********************
        Cố gắng dằn lòng xúc động khi nhìn thấy Vinh từ xa,người anh ốm và đen trông rất thương tâm…Cái trở lực thấy mình có lổi với anh vì đã bỏ anh trong lúc bị ngã ngựa làm Phượng bối rối không biết phải làm sao cho hợp lý. …Nỗi trắc ẩn thương anh làm nước mắt Phượng trào ra không ngăn được.Hơn mười mấy năm xa cách…hơn mười mấy năm nàng vẫn nhớ anh với những mặn nồng tình nghĩa vợ chồng…

        Trong những ngày biến động năm xưa, chiến tranh tràn vào thành phố khi VC lợi dụng ngày hưu chiến để tiến chiếm vài các thành phố miền Nam vào Tết Mậu Thân.Qua cơn bất ngờ, quân lực Miền Nam đã phản công và đánh bật VC ra khỏi thành phố và lần hồi chiếm lại vị thế mạnh như trước đây. Trong những ngày sau Tết, đơn vị Vinh còn đóng chốt bão vệ thành phố và hành quân mở vòng đai quanh các vùng lân cận ngoại thành. Đơn vị chàng đóng tại trường trung học mà Phượng đang học vào ban đêm và thường rút đi vào sáng sớm. Phượng quen anh qua một bức thư rất tình cờ….
        Một buổi sáng vào lớp học, Phượng bắt được một bức thư trong học tủ ngay chổ mình ngồi.Có lẻ anh chàng biết tên Phượng do cái tên khắc trên mặt bàn? Phương cầm bức thư có đề tên mình ở ngoài bì thư qua nét viết chắc chắn là của một người con trai. Phương dáo dác nhìn mọi phía xem có ai thấy hành động của nàng không và đút cái thư vào cập.Tự dưng Phượng nao nao hồi hợp không biết thư của ai, nàng muốn giỡ ra xem ngay nhưng lại ngại mấy nhỏ bạn khám phá ra chuyện thư từ của ai đó gởi cho mình thì phiền lắm.Nàng định bụng chờ tan trường về nhà hảy xem lá thư ấy.
         Vừa về đến nhà, Phượng đi ngay lên lầu, ngồi vào bàn học của mình và bốc thơ ra xem.

                                      Cô Phượng thân mến,
       
Tôi xin lổi cô trước vì quá đường đột viết bức thư nầy khi mà chúng ta chưa quen biết nhau. Đơn vị tôi đóng quân đêm ở trường cô.Rất tình cờ tôi ngồi vào ngay cái bàn với cái tên Phượng khắc trên mặt bàn. Tôi định viết thư về cho ba má tôi, nhưng nhìn thấy tên Phượng, bổng dưng tôi đổi ý và viết bức thư nầy với ước mong ngày mai khi chúng tôi rời khỏi đây và cô vào lớp học sẽ nhận được bức thư xin làm quen nầy của tôi…Tôi rất bối rối…không biết thư nầy có có đến tay cô không?Cô có ghét tôi không khi tôi làm một chuyện hơi phiêu lưu..?Nhưng tôi có lòng tin, chắc chắn là bức thư nầy sẽ được cô đọc.Tôi xin được làm quen với cô, mong rằng cô sẽ chấp nhận và chúng ta sẽ có dịp liên lạc với nhau.

                                                               
KBC….ngày…tháng…năm…
T/U Đỗ Quí Vinh

          Đọc xong bức thư, Phượng thấy lòng mình bị xao xuyến kỳ lạ…và nghĩ…nếu bức thư nầy mà lọt vào tay con Lan ngồi kế bên thì nó trêu cho mà biết.Phượng ngồi bật ra ghế nhìn qua khung cửa sổ, phía khoảng tróng sau nhà nắng chiều loang loáng vàng bên hàng cây.Con chim chìa vôi nhảy chuyền trên nhánh lá xanh hót líu lo. Trái tim non nớt của cô nử sinh lớp đệ tứ chưa biết yêu vẫn còn nhảy dây, đánh vũ cầu vô tư với bạn bè…nay như có một luồng cảm ứng len lén vào hồn…mặc dù chưa biết người viết thư là ai, nhưng nàng cũng cảm giác như có một cái gì đó kỳ lạ khuấy động hồn nàng…Phượng nhìn về một hướng xa xâm vô định.Nàng như bay bay trong một niềm vui nào đó không hình dung được. Phượng hát khe kẻ…“Tình yêu như trái phá con tim mù lòa…một mai thức dậy…”Tình yêu là gì?Yêu là gì? Có phải là đôi tay quấn quít…? Có phải là những nụ hôn…? Có phải là những bức thư nói điều nhung nhớ…? Có phải…? Là gì nhỉ…? Phượng thấy những đứa bạn có người yêu…Phượng nhìn họ một cách lén lúc mà chưa biết được những gì đôi trai gái yêu nhau.Họ sẽ có những cử chỉ gì trao nhau?Đôi khi đọc các truyện tình yêu trong các quyển sách, sao mà đẹp quá! thơ mộng quá!Phượng nghĩ ngợi lơ mơ và hình như nàng đang ao ước một điều gì đó…?Nàng nói thầm:“ Người ta chỉ nói làm quen thôi…sao tim Phượng lại xao xuyến…và ngồi đây nghĩ đến chuyện yêu đương…Nàng thấy đôi má mình như hừng nóng…Sao lạ vậy?Thôi bỏ đi bạn…!hảy đi thay đồ, ăn uống và lo làm bài tập đi, đừng mơ mộng nửa” Phượng cất giấu cái thư vào tủ bàn, mở tủ áo lấy bộ đồ mặc ở nhà ra thay.Nàng lại bật nằm ngửa trên giường ngủ của nàng…lại nghĩ ngợi miên mang về cái thư…. 
        Cuôc tình của Phượng và Vinh bắt đầu rất tình cờ như vậy.Sau thời gian trao đổi thư từ, đến một cuộc hẹn gặp gở đầu tiên tại một quán ăn ở bến Ninh Kiều.Họ thật sự yêu nhau và tiến tới hôn nhân.

Chàng mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
…………………………………….
Cưới nhau xong là đi.
                           (Thơ Hữu Loan)

        Sau ngày cưới ba má Phượng muốn Phương và Vinh cùng về ở chung, nhưng Vinh không muốn.Chàng nói với Phượng “Anh thích sống riêng tư thoải mái hơn”.Hai vợ chồng sau đó mướn một căn nhà nhỏ gần đơn vị đóng quân. Đơn vị chàng đi hành quân đôi ba ngày thì về.Chàng dành rất nhiều thời gian bên Phượng. Phượng rất mắn đẻ.Sau những ngày tân hôn nàng có thai và tiếp đến mỗi năm là thêm con.Má nàng nói nàng đẻ như heo. Bạn bè đùa nói với Phượng.Chồng bồ chĩ đụng giường bạn là có thai.Phượng đỏ mặt nói: Tại anh Vinh muốn cho Phượng đẻ một hơi rồi nghĩ.
        Vinh như con hổ đói. Mỗi lần về nhà, sau khi đi uống rượu với bè bạn. Chiều tối về, anh vào nhà tắm, rửa mặt hay tắm gội qua loa là chàng kéo Phượng vào phòng riêng với hơi men rượu nồng và hơi thuốc thơm.Phượng luôn chìu chồng.Nàng như con rắn quấn lấy thân chàng với đôi môi nồng ướt dính chặc môi chàng. Vinh dịu dàng với với đôi tay, đầu lưởi lướt qua khắp thân thể nàng.Nàng mềm nhảo, đê mê… Đôi lúc chàng hung hản như con hổ ấn sâu, nuốt trửng con mồi.Phương rên khẻ như con mồi bật chết…                 
       Hình như có một điều gì đó làm chàng ngây ngất và vội vã với nàng.Có lẻ cũng vì về phía Phượng. Với một thân hình cân đối, với lối trang sức đơn giản mà gợi cảm. Nàng hay mặc những bộ đồ bằng vãi mỏng lồ lộ đôi nhủ hoa bên trên và những đường nét mờ ảo phía dưới khi có chàng ở nhà.Tất cả thân hình gợi cảm đó tỏa ra một mùi hương nhè nhẹ thật quyến rủ.Phượng chuẩn bị mọi thứ cho chàng và chờ đợi chàng.Nàng là một đối thủ nồng nàng và chàng chấp nhận chịu thua trận với nụ cười mản nguyện.
        Đối với chàng, trong các trận chiến khóc liệt hàng ngày diển ra thật không lường được cái chết… có thể đến bất ngờ! Cái chết bất ngờ trong lằn đạn kẻ thù bay vèo trong trận mạc.Khi về với Phượng, chàng thấy thật sự bình yên với giấc ngủ bên nàng.Phượng là một chiếc phao để chàng bám vào trên dòng lủ cuộn xoấy của chiến tranh.Những đứa con kháo khỉnh tuần tự ra đời là niềm an ủi vô biên với chàng.Tiếng cười tiếng khóc của chúng cho chàng cảm nhận được cái hạnh phúc hiện hữu thật tuyệt vời.
        Nhưng chuyện đời đâu phải như sự mong ước rất bình thường như vậy được mãi mãi.Sau tháng tư năm 75 mọi thứ đều bị đảo lộn.Vinh đi trình diện với Ban Quân Quản tỉnh.Chàng bị nhốt ở khám lớn.Gia đình ba má nàng đã di tản.Phượng tất tả với đàn con nhỏ 5 đứa,vừa chạy vại nuôi chồng.Nàng dành dụm riêng cho mình được đôi ba chỉ vàng để phòng thân.Chỉ sáu tháng sau ngày 30 tháng tư,tất cả số tiền và số vàng dành dụm,cả nử trang ngày cưới đều bị đem ra xài hết.
        Chủ nhà là một người Hoa.Đã hơn hai tháng nàng chưa trả nợ mướn nhà nhưng ông ta cũng không đòi.Biết nàng có chồng đi tù, 5 con còn nhỏ…Có lần đi ngang nhà nàng ông nhìn vào…Phượng bối rối sợ ông đến đòi nợ.Nhưng ông không nói gì và bỏ đi….Cuối cùng một ngày nọ ông gỏ cửa bước vào nhà khi Phượng đang chuẩn bị giỏ đồ ăn để đi thăm nuôi Vinh.Lúc nầy chàng bị đưa về Bình Thủy. Ông đưa cho Phượng một gói nhỏ và nói: “Em cầm cái nầy để lo cho mấy đứa nhỏ và cho chồng em”.Phượng chưa kịp phản ứng gì thì ông quay người đi ra khỏi cửa.Phượng đắn đo muốn đem trả lại cho ông ấy nhưng quá kẹt tiền nên phải dùng số tiền đó và nói với mình là chỉ một lần thôi.Tuy nhiên với vài lần kế tiếp, ông ta tỏ ra rất ân cần và nói với Phượng:Tôi giúp mấy đứa nhỏ mà, em đừng từ chối. Phượng biết ông ta đã mất vợ từ mấy năm nay, ông sống một mình trong căn nhà liền khu phố, vì mấy đứa con ông đã ra riêng….Chuyện phải đến đã đến.Phượng chấp nhận sự khẩn khoản của ông xin được sống chung với Phượng để lo cho các con nàng…Phượng trăn trở nhiều đêm không ngủ được về chuyện chấp nhận đó. Sự đau đớn khổ sở chất chồng chỉ trong vài tháng sau ngày “Giải phóng” làm Phượng như chết điến.Nàng thấy con đường tương lai mù mịt tối đen.Nhìn những đứa con thơ dại sống trong cơn thiếu thốn,nàng nghĩ mình “phải hy sinh đời mình để cứu các con…
          Từ ngày định cử tại Mỹ đến nay có hơn 15 năm, các con nàng đã lớn.Nhờ một số vàng khá lớn mà ông chồng Tàu mang đi.Phượng đã là một bà chủ một cái chợ nhỏ, thu nhập khá nên đời sống gia đình rất êm đẹp. Mấy đứa con nàng có cuộc sống đầy tiện nghi.Chúng rất ngoan và học hành cũng giỏi giang.
         Hôm đón Vinh ở phi trường chỉ có hai đứa con lớn còn nhớ mang máng cha, nên khi thấy Vinh nó bước nhanh đến ôm Vinh, còn mấy đứa còn lại thì chỉ trố mắt nhìn.Vinh rối rít ôm hôn từng đứa con, quên có Phượng đứng bên cạnh.Hình như một điều gì đó trắc ẩn trong tâm chàng…Chàng ngước mặt về phía Phượng với đôi mắt buồn buồn: “Chào em…..”
          Đối với Vinh lúc nầy mọi chuyện như kết thúc, Phượng có đời sống gia đình riêng.Chàng đã chuẩn bị tinh thần trước khi bước chân vào đất Mỹ. Chàng chỉ bận tâm đến các con của chàng nhiều hơn.Còn với Phượng thì cũng vậy, mặc dù còn thương Vinh nhưng cuộc sống của nàng sẽ không có con đường quay lại.Mặc dù có lúc nàng cũng có ý định sẽ quay lại nếu Vinh sang đây. Người chồng sau cũng nói: Chồng em sang đây, em hảy về với chồng em…Phương đắn đo…nhưng nàng nghĩ ông ta rất tốt, đã coi các con nàng như con đẻ, luôn luôn châm sóc Phương và nhất là cái cơ sở kinh doanh đang phát triển.Nàng muốn có thu nhập cao để lo cho các con ăn học đến cùng.Phương nói với ông: Mình ơi! Tôi sống với mình thôi hà…Ông vui cười rạng rở.
          Sau những ngày buồn bã đầu tiên khi sống trên đất Mỹ.Vinh bắc đầu muốn tìm công việc làm để cho ngày tháng qua nhanh, hơn là phải ngồi uống cà phê hằng giờ với nhóm sĩ quan bạn qua trước.Lúc nầy người ta gọi là nhóm HO…
         Với số vốn anh văn sẳn có và với những đêm học thêm ESL ở một lớp đêm trong trường trung học dành cho người lớn.Vinh bắt đầu xin việc làm. Được một người bạn làm ở hảng máy bay ở San Diego giới thiệu.Anh nhờ người bạn nộp đơn. Được việc làm anh hân hoan đến từ giả Phượng và các con.Anh muốn thoát xa hơn thành phố có Phượng.Một hành trình mới cho một cuộc sống mới bắt đầu từ đây.Hình ảnh Phượng sẽ không còn can dự vào cuộc sống của chàng.Anh, Phượng mỗi người sẽ có một phần đời riêng.
        Năm 2000 Vinh trở về Việt Nam để thăm ba má chàng.Mọi thứ ở đây hình như đều xa lạ.Con đường, gốc phố và cả đến con người.Vinh có cảm giác mình đang ở một đất nước nào đó, chứ không phải quê hương mình.Sau những ngày với gia đình,Vinh dành tuần cuối lên SàiGòn để gặp lại vài người bạn cũ, đa số không đủ điều kiện đi theo diện HO hoặc vì thiếu ngày tháng ở tù hoặc vì bị thương tật.
        Một đêm còn lại cuối cùng Vinh muốn đi dạo một mình nơi phố cũ SàiGòn.Chàng đi từ đường Nguyễn Huệ nơi phòng ngủ chàng đang ở ra bến Bạch Đằng nhìn con sông buồn mù mịt. Đức Thánh Trần tay chỉ dòng sông còn đó trơ gan cùng hoang lạnh.Chàng đi vòng qua đường Tự Do, nhìn lại toà nhà Quốc Hội cũ, qua khu Eden, ngó Toà Đô Chính năm xưa.Chàng thả bộ dài theo đường Lê Lợi (Tên thời Pháp là Bonard) xem quán Mai Hương ở chổ nào?Nhà sách Khai Trí ở đâu?Suốt con đường chàng hình dung nhớ lại những quán sách, những hàng bán đồ tạp bên lề đường…những tà áo dài, những chiếc vái ngắn…Tất cả mơ hồ trong trí não.Dừng trước phòng trà Tự Do cũ.Vinh nghe như có tiếng kèn Sacxo réo rắc bài Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn, giọng ca tha thiết của Việt Ấn với bài Hận Đồ Bàn “Người xưa đâu…người xưa đâu…mà tháp kia đứng như buồn rầu?”
          Ôi!Một thời học sinh.Ôi!Một thời trai trẻ…Ôi!Một thành phố SàiGòn yêu kiều năm xưa với biết bao kỷ niệm nay còn đâu…! “Sài Gòn ơi!Ta đã mất người như người đã mất tên…”
          Đánh vòng qua công trường Quách Thị Trang, nhìn khu chợ Bến Thành, ngó qua khu nhà ga xe lửa cũ…giờ không còn bến ga. “Trời đêm dần tàn, tôi đến sân ga nơi tiển người trai lính về ngàn….Tàu cũ năm xưa mang người tình biên khu về chưa…?
        Nhìn tuốt bên kia, nhà hàng Thanh Thế còn bản hiệu, nhưng chắc gì còn món Bít Tếch ngon như năm nào…!Mõi chân,Vinh ngồi trên một băng ghế nhìn qua ngôi nhà lầu cao truớc đây có màn hình chạy bản tin mỗi đêm và cũng là nơi pháp trường xử bắn vụ Tạ Vinh.Chàng ngồi thật lâu và nhấm mắt ngửa cổ lên trời để mường tượng lại những hình ảnh cũ quanh công trường.Bất ngờ khi chàng mở mắt ra khi nghe tiếng ai đó khóc thút thít.Một thiếu phụ trẻ ngồi bên bệ xi măng đang gục đầu khóc ấm ức.Chàng mãi mê với những cảm giác quay về với những kỷ niệm cũ mà không để ý tới người thiếu phụ kia.Trời khá khuya chàng muốn quay về phòng ngủ.Chàng đi ngang thiếu phụ nọ và dừng lại hỏi:“Chị ơi có điều gì buồn mà chị khóc giửa đêm như vầy”.Thiếu phụ ngước lên với đôi mắt đẫm lệ và kể mọi sự tình cho chàng nghe.
         Chồng chị trước đây là một sĩ quan đi “Cải tạo”.Anh cùng một số anh em khác trốn trại trốn nhưng bị chúng bắt lại và đánh cho tới chết.Quê chị ở Mỹ Tho lên đây ở giúp việc cho hai vợ chồng nhỏ bạn là bạn học cũ ở trường văn khoa hồi trước.Trước đây chồng nhỏ bạn đi biểu tình chống chính phủ, bị truy lùng.Hắn trốn theo một số bạn khác vào mật khu.Sau năm 75 trồi về làm việc ở Thành Đoàn TP.Sẳn có vai vế nên chiếm cứ căn nhà của “Tư sản mại bản” trong đợt đánh tư sản.Chúng mở cửa hàng ăn uống.Trong chuyến về quê,chị gặp lại nó và nó gợi ý nhờ chị giúp một tay.Nghĩ là chổ bạn cũ và gặp lúc miền quê quá nghèo khổ, chị nhận lời. Chị làm cật lực công việc nhà và cả việc buôn bán tiệm ăn.Công việc nặng nhọc chị không màng tới, nhưng thằng chồng của nó để ý đến chị.Nó đâm ghen bóng gió và đai nghiến vô cớ chị nhiều chuyện.Quá ức lòng chị buồn và bỏ nhà nó ra ngồi công trường nầy với ý định tự tử.Vinh khuyên nhủ chị  và mời chị về phòng mình ngủ vì chị nói là không có ai thân ở Sài Gòn.Ban đầu chị do dự nhưng sau khi thấy Vinh rất từ tốn và khẩn khoản nên chị gật đầu.
         Đêm đó hai người tâm sự với nhau đủ mọi chuyện gần tới sáng.Hình như Vinh ngã lưng trên giường và ngủ thiếp đi chừng mươi phút gì đó.Khi mở mắt ra thì trời sáng hẳn.Những tia nắng hồng chiếu ngang qua khung của sổ.Ngoài đường tiếng còi xe nghe inh ỏi.Chị đàn bà ngồi trên chiếc ghế dựa ngoẻo đầu ngủ say.Vinh vào phòng tắm làm vệ sinh và thay đồ.Khi trở ra thì chị đã thức giấc.Hân tên chị, nhìn bâng quơ về một phía góc phòng ngủ.Vinh nói: “Hân vào rửa mặt đi, chúng ta xuống dưới ăn sáng.Tôi phải ra phi trường vào trưa nầy.Hân cùng ra phi trường đưa tôi nghe.
        Sau khi đưa Vinh về Mỹ, Hân trở về Mỹ Tho ở với ba má ruột.Vinh trở lại Mỹ nhưng vẫn liên lạc với Hân thường xuyên.Hai năm sau Vinh xin phép về lại Việt Nam.Trong chuyến về nầy Vinh và Hân cùng đi chơi đó đây.Một tình yêu thực sự nở ra giửa hai người.Ban đầu Vinh cám cảnh đau khổ của Hân vì nàng cũng là vợ của một chiến hữu chết trong tù.Vinh muốn cứu nàng qua cơn khổ ải.Nhưng trong những ngày gần nhau Vinh tìm được ở Hân có nhiều đức tính gần giống như Phượng của chàng.
         Đám cưới được diển ra ở tuần cuối trước khi Vinh trở lại Mỹ. Đa số thực khách là họ hàng hai bên, còn lại là các đồng đội cũ của chàng.Sau gần hai năm bảo lảnh.Vinh trở lại Việt Nam đón Hân về Mỹ.Hiện nay họ đang sống rất hạnh phúc ở San Diego.
Ngả rẻ hình như rất vô tình
Chia đường…thôi hết một trời thương
Cánh hạc mút trời xa thâm thẫm
Vết kẻ đường bay đã mịt mùng
Em với vòng tay người không mộng!
Anh với tình anh ở cuối đường…!


                              (Mùa lập Xuân Nhâm Thìn năm 2012)
                                                                      


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHỮNG ĐOẢN VĂN

BÓNG NHỚ

Anh Hai thường than thở: “Sao cứ mỗi khi Tết về là nhớ nhà quá chừng. Nhà ở đây là chốn quê hương ở Việt Nam. Một nơi mà anh Hai đã bỏ đi gần hơn 40 năm rồi. Hồi đó thời gian sao mà nó dài quá chừng. Năm năm học trường Quận. Năm năm lên trường Tỉnh. Mấy năm trên Sài Gòn. Anh thấy sao mà nhiều kỷ niệm quá…hình như đầy ấp theo những ngày tháng đó. Anh nhớ bạn bè, anh nhớ mái trường, lớp học. Anh nhớ từng con phố, ngỏ hẻm. Anh nhớ biết bao nhiêu chiều thứ Bảy, Chúa Nhật dạo phố Sài Gòn. Anh nhớ hương vị bò bía, nước mía Viển Đông…Anh nhớ chiều công viên ghế đá với tiếng thầm thì của người yêu… Anh nhớ từng cánh đồng và những con sông. Anh nhớ từng ngọn cỏ, cọng rau. Anh thèm những món ăn rất đạm bạc như cá kho tộ, tô canh chua tép với rau nhiếp, mò om. Anh nhớ tô bún nước lèo ngoài đầu chợ Tỉnh. Anh nhớ trái ổi, trái bần ở dưới quê…Anh nhớ từng khuôn mặt trong mái ấm gia đình…Anh nhớ đủ thứ hết. Mỗi lần nhớ là hình bóng những thứ đó cứ lởn vởn trong đầu óc, anh muốn bay về Việt Nam cho thật nhanh…

Rồi một lần anh Hai có dịp về lại Việt Nam. Máy bay quần một vòng từ độ thấp. Anh ngó Sài Gòn ở phía dưới, xe cộ chạy như những đàn kiến bò trên đường. Những ngôi nhà cao, thấp xen lẩn trong ánh nắng ban mai hồng hào. Chiếc máy bay đáp lướt trên đường băng. Anh nhìn bên ngoài còn những dãy rào thép gai và những hầm hố công sự của một thời chiến tranh vẫn còn đó. Bước ra khỏi cánh cửa máy bay.Trời nóng hừng hực. Anh bắt đầu lột áo bớt ra…cho đến khi chỉ còn cái áo ngắn tay mà sao vẫn còn thấy nóng oi cả người. Qua các cửa ải, anh bắt gặp nhiều gương mặt nhìn anh không mấy gì thân thiện. Gặp lại người thân. Anh có được mấy cái ôm thân thiết và nụ cười đầy nước mắt của những người nhà làm anh thấy ấm áp và xúc động vô cùng!

Chiếc xe 12 chổ ngồi mà người nhà mướn từ dưới tỉnh lên rước anh về, chạy trên đường như dồn đống xe hơi, xe gắn máy, cùng khói bụi mịt mù. Anh nghĩ “Chắc như vầy thì làm sao mà anh dám lái xe một mình đi trên các con đường nầy”. Đi qua các đường phố, anh cố nhìn cho kỷ, nhưng chẵng biết đâu là các con phố quen ngày xưa. Anh cứ hỏi hết đường nầy đến đường khác. Thằng em của anh

chỉ trỏ và nhắc các tên đường…nhưng anh không còn thấy bóng dáng nào của những con đường thân quen thuở xưa…

Về tới quê, nơi căn nhà của ba má anh thuở xưa thì vẫn còn nguyên như cũ, mọi thứ có hơi thay đổi đôi chút nhưng tuyệt nhiên nếu nhấm mắt lại anh cũng sẽ đi từ trước ra tới sau bếp…đều nầy làm anh xúc động đến rưng rưng hai giọt nước mắt…

Đứa em dâu nấu buổi cơm với mấy món mà thiếm biết anh rất thích thuở hơn 40 năm trước. Cơm nóng, canh nóng cộng với cái nóng của căn nhà. Anh vừa ăn vừa lau mồ hôi. Đứa em trai hỏi: Uống chút rượu nghe anh …Anh lắc đầu nói: Nóng thấy mồ uống gì zdô…

Suốt hơn gần 3 tuần lể trôi qua, anh Hai có dịp đi đây đi đó. Ở mọi nơi chốn đều đổi thay, không còn như anh tưởng. Anh ăn uống nhiều thứ…nhưng… thấy sao mà không ngon như lúc trước. Cả tô bún nước lèo thịt heo quay mà anh thích nhất cũng vậy…Anh nghĩ chắc tại ở bểnh mình ăn đầy đủ quá rồi đâm ngán …?

Ra Giêng, vào ngày đám giổ ba của anh. Bà con nội ngoại, chòm xóm tới nhà nhộn nhịp. Các bà mỗi người một việc cùng xắng tay nấu nướng ở sau nhà bếp. Cái không khí nồng ấm và hình bóng xưa cứ chạy suốt trong tâm tưởng. Anh hai ngồi nhớ một hồi rất lâu…Anh lấy tay quẹt nước mắt…

Ngày trở lại Mỹ. Chiếc máy bay đáp xuống phi trường. Anh ra khỏi khoang máy bay, bước vào nhà ga với không khí mát rượi. Anh Mỹ đen rà cái pass board xong, ngước lên mỉm cười và nói: Well come back USA…

Chiếc xe hơi thân quen của đứa con ra rước anh chạy trên xa lộ. Anh cảm thấy thoải mái và an toàn vô cùng. Anh Hai hơi đói bụng.Thằng con chở anh đến quán phở quen. Anh ăn ngon lành tô phở gần như cạn nước…

Đêm mới về lại căn nhà ở bên nầy, anh bị mất ngủ vì trái giờ, quen giấc gần hơn cả tháng ở Việt Nam. Anh nằm gát tay lên trán mơ màng…Anh chợt thấy một điều gì đó… hình như là …BÓNG NHỚ vừa hiện ra trong tâm hồn mình…!

H ÌNH NH Ư

Trong thời chiến tranh, anh luôn đối diện với biết bao hiễm nguy của chiến trường. Anh đã chứng kiến biết bao nhiêu đồng đội ngã xuống, biết bao nhiêu đối phương phơi xác trong các hố hầm, biết bao người dân chết oan uổn giữa hai lằn đạn. Anh đã mất đi cái thăng bằng trong cách sống. Anh thiếu vắng thời gian để có cái dịu dàng ấu yếm trong tình yêu, trừ một mối tình trong tuổi còn học trò. Bây giờ anh sống vội vả với những ngày nghĩ phép hoặc những buổi không đi hành quân. Tình yêu tinh khiết dường như không còn ở lại với anh. Anh đến với những cuộc gặp gở bất ngờ. Anh vồ dập với những cơn luyến ái trong hơi men. Lời nói yêu đương chỉ là cái lý giải để anh chiếm đoạt người tình hơn là là sự rung động thật sự của con tim. Từ đó anh vô tình đã để lại bao nhiêu hậu quả cho những người con gái đến với anh: “Nước mắt, sự đau khổ, có cả những hệ lụy trong tai nạn ái ân vội vã đó.” Chiến tranh đã đẩy cuộc đời trai trẻ của anh vào cơn lốc xoấy của cơn lửa táp, đạn vèo. Anh như bị đánh mất bản chất con người của anh trong cơn biến động đó.

Đến một lúc rồi anh cũng phải có vợ. Cưới vợ như là một định kiến của gia đình, thân tộc và định vị lứa đôi của cuộc sống đời thường.

Thời gian trôi nhanh…Anh nhìn về phía trước một đoạn đường lấp ló buổi chiều tàn. Đôi lúc anh quay đầu nhìn về quá khứ. Một thời gian dài hơn 40 làm vợ chồng đã trôi qua trong bao gian truân khốn khó...Bây giờ hai người đã già, không còn đi làm nữa. Con cái đã có gia đình và có cơ ngơi ổn định. Hai bóng già lặng lẻ sống bên nhau trong gia đình càng lúc càng tróng vắng…. Không biết có phải vì biến thái của tuổi già hay vì tính khí khác biệt của mỗi người mà sự va chạm thường xuyên có dịp khoấy lên..? Có một cái lực vô hình nào đó đẩy mỗi người mỗi ngày một xa. Cái xa không phải là khoảng cách mà xa trong tình cảm …? Suốt hơn 2 năm vợ chồng sống chung nhà, nhưng mỗi người mỗi phòng riêng.Sự gìao tiếp với nhau bề ngoài cũng rất bình thường vì bổn phận làm cha, làm mẹ với những đứa con, làm ông bà với những đứa cháu và vì sự giao tế bạn bè thân thích. Nói tóm lại, mỗi người ráng đóng vai trò cho thích hợp với mọi hoàn cảnh. Đến một ngày vợ anh bệnh nặng và tách hẳn về nhà đứa con gái để tiện viêc chăm sóc, thì sự xa cách bị đẩy xa thêm.Thỉnh thoảng anh về bên nhà con gái để giúp đưa vợ đi nhà thương hoặc làm một vài cử chỉ nặng về phần an ủi nghĩa tình, dù sao 2 người cũng có mấy chục năm chăn gối.

Mấy năm liền anh sống trong căn phòng đơn chiếc với những sinh hoạt tự túc châm lo cho mình và thằng con út còn đi học. Thời giờ còn lại, anh tìm quên trên bàn máy vi tính với những bạn ảo trên Net và trên Facebook. Những bài thơ, những bài văn lúc nầy được trải ra nhiều hơn. Khoảng lấp nầy cũng chỉ giới hạn chừng mực nào đó…còn lại nỗi cô đơn của tuổi xế chiều đang còn sức luyến ái, đôi lúc bậc dậy trong anh những cơn thèm khát xác thịt. Anh cũng chỉ dằn lòng lại thôi…

Nhiều lúc ngồi một mình, anh nhìn lên khoảng trời mịt mù sương khói, cánh chim nào đó bay trong trời giá lạnh, về một hướng rất xa xăm…. Quỷ thời gian của đời sống không còn bao nhiêu nữa là hết. Anh chợt thấy buồn buồn cho cuộc đời mình…Anh như cánh chim kia cứ bay đi thầm lặng đến cuối chân trời.Trong một khoảng riêng buồn…anh thấy có một nỗi hụt hẩn rất lớn trong tâm hồn… hình như tình yêu thực sự đã mất trong anh tự bao giờ…!?

CUỐI NĂM XỨ NGƯỜI

Do hiện tượng thời tiết, cả gần hơn tháng nay trời cứ mưa liên tục. Mưa không lớn. Mưa rỉ rả. Gió lạnh lùa ngang cây trơ cành bên ngoài. Bầu trời một màu xám mờ. Trời không băng giá, nhưng những cây loại nhiệt đới được đặt bên trong mái hiên nhà sau thì ủ rủ gần như trân mình, bầm lá, mặc dù được che bởi những mảnh nilong.

Buổi sáng ngồi uống cà phê, nhìn cây mai tứ quí nhú mầm nụ hoa. Tháng cuối năm âm lịch sắp hết. Ừ cuối năm rồi! Cuối năm của một khoảng đời gần hết. Cuối năm chập choạng với những ngày lặng lẻ. Cuối năm với cơn mưa lạnh nơi xứ người. Cuối năm tôi co ro như những cành cây nhiệt đới. Cuối năm chẵng có niềm vui nào trổi dậy trong hồn. Cuối năm lẩn thẩn với mớ nghĩ suy quanh quẩn rồi than thở một mình. Cuối năm xứ người sao buồn quá…!

LẨN THẨN 30

Vợ tôi nói: Năm nay tháng 12 thiếu, không có ngày 30 đâu nghe ông! Có đi đâu chơi nhớ về nhà để cúng cơm mời tổ tiên, ông bà, cha mẹ vào buổi trưa … Em chuẩn bị mâm ngủ quả để cúng mừng vui năm mới. Anh nhớ mua phong pháo đốt lúc Giao Thừa để xóa đẩy hết những đều không tốt của năm cũ. Nhớ là ngày 29 đó nghe! Tôi ừ ừ ...đàn bà có khác…! Cái gì mà phải nhắc nhở ....năm nào cũng vậy mà….! Nhưng tôi chợt nhớ lời bà xã … năm nay không có ngày 30 đó nghe. Ừ…Ừ… không khéo lại quên mất…Tôi thẩn thờ nhớ: Đêm 30 xưa nơi quê nhà trong thời thơ ấu bên mái gia đình êm ấm. Đêm 30 lê bước trên phố khuya với lòng trỉu nặng tình buồn. Đêm 30 nơi trại lính trong thời chiến tranh với rượu nát tàn canh. Đêm 30 nơi “Trại Cải Tạo” sau ngày 30 tháng Tư với nỗi buồn cho một ngày mai vô định! Đêm 30 nơi đất khách với cảm giác buồn nhớ quê hương. Một nửa cuộc đời nơi quê nhà với bao thăng trằm cay đắng. Một nửa cuộc đời bình lặng nơi đất khách quê người với bao nỗi trằn trọc, thao thức về đất nước quê nhàThoáng chốc đã hơn 70 năm làm người!

Năm nay đón Giao Thừa nhầm ngày 29…Tôi chợt thấy thiêu thiếu một cái gì đó…vì không có ngày 30 “Em đến thăm anh đêm 30…còn đêm nào buồn hơn đêm 30…Anh nói với người phu quét đường…Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em”.

SAU NGÀY 30 THÁNG TƯ

Tôi có người anh bà con, ba anh đi kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông hy sinh lúc Hiệp định Geneve vừa ký xong…1954 anh bị đưa ra Bắc lúc anh mới 12 tuổi. Anh thực sự nghĩ cái chết của ba anh bởi lòng yêu nước c ũng nh ư bao nhi êu ng ư ời tham gia kh áng chi ến th ời đ ó. Mấy chục năm ra Bắc, anh bị nhồi nhét lý tưởng Cộng Sản. Họ chèn ép nhân dân và thanh niên miền Bắc vào khung hận thù miền Nam và Đế Quốc Mỹ.Thật sự chủ nghĩa Tự Do của miền Nam và Đế Quốc Mỹ anh chưa bao giờ biết rỏ. Anh bị bưng bít sự thật và chỉ biết qua tuyên truyền là nhân dân miền Nam sống trong áp bức, đói rách, bần cùng…

Tôi được 11 tuổi, sống và lớn lên trong miền Nam. Tôi được đào tạo trong cái nôi Tự Do - Dân Chủ.Thực sự tôi không biết cái giá trị nầy ở mức độ cần thiết là bao nhiêu.Từ lúc nhỏ tôi nghe tuyên truyền chủ nghĩa Công sản là tam vô, là đôc ác, là bần cùng hóa nhân dân.Thực sự tôi không hiểu cái mức độ độc ác của Cộng sản là tới mức nào. Tôi rất mơ hồ khi ngồi trên băng ghế nhà trường, khi vào quân ngũ, cả khi buông súng đầu hàng khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh, Tư lệnh tối cao của quân đội hạ lệnh đầu hàng. Tôi và bạn bè đồng ngũ chỉ tức tối vì nghĩ rằng mình đâu dể bị thua bộ đội miền Bắc! Và thêm nữa…Cả miền Nam chắc cũng ngớ như tôi (Chỉ những người Bắc di cư 1954 là hiểu về Cộng Sản qua các cuộc đấu tố và cải cách ruộng đất lúc đó…)

Sau 30 tháng Tư năm 1975 người anh từ miền Bắc về Nam.Việc đầu tiên là anh quá ngỡ ngàn trước một Sài Gòn diểm lệ. Việc thứ hai là căn nhà của má anh là một căn nhà gạch mà anh phải thốt lên: Căn nhà thế nầy phải là cấp bộ Trưởng mới có được…rồi ngày tháng năm kế tiếp…tất cả đã làm anh từ băn khoăn và rồi đến lúc nói với tôi: Bọn mầy để miền Nam bị mất thật uổn…Bây giờ làm sao lấy lại được…?!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Dương Thu Hương ngồi bên lề đường úp mặt khóc vì một Sài Gòn phồn thịnh mà bị mất vào tay ‘Ăn Cướp”…

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 hàng hóa,vật liệu, lúa gạo miền Nam chở ra tiếp tế cho miền Bắc. Thanh niên nam nữ miền Bắc mơ vào Sài Gòn như mơ đi nước ngoài …

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 nhóm chóp bu lảnh đạo chia nhau làm giàu. Một loại Tư Bản Đỏ mà trong nước gọi là Nhóm Quyền Lợi...sắp bán đứng quê hương cho Tàu….!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 người dân cả nước mất hết Tự Do-Dân Chủ-Nhân quyền…!

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975…mới đây nhất một nhà sữ học nổi tiếng trong nước nói đại ý như vầy: “Chế độ Cộng Sản là không tưởng…có đâu mà tiến tới”

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975: AI THẮNG AI….?

Sau gần mấy mươi năm anh em có dịp gặp lại. Anh nói với tôi: “Tao đã bị lừa mấy chục năm khi còn ở ngoài Bắc. Tao bị phản bội sau ngày 30 tháng Tư chính những đồng chí của tao…!.Tôi nói với anh: “Trước đây tôi cầm súng chống Cộng Sản mà chưa biết Cộng Sản thế nào...! Sau ngày 30 tháng Tư, tôi còn mơ hồ về họ..! Lúc tôi biết họ là ai thì đã muộn…Tôi đã bị đánh mât quê hương và bị sống xa tổ quốc…!

Tôi và anh ai buồn hơn ai?


Hoa ơi! Đừng kết trái

Khi mới dọn nhà về, phía sau là một khoảng đất trống.Vợ chồng chúng tôi phát họa một sân sau với vườn rau, cây trái.Vài năm sau, phía sau nhà có vườn rau và cây ăn trái, căn bản là các loại rau ăn hằng ngày: Rau râm, rau húng cây, rau húng lủi, rau dấp cá….Cây ăn trái như chanh, quit, cam, hồng, táo…Thấy đất còn trống chổ nào là tôi tha cây về trồng thêm.Vợ tôi cằn nhằn: “Ông trồng nhiều cây ăn trái, ráng thu dọn lá và mấy trái cây rớt…em lo không kham đâu a..?”. Nói là nói vậy nhưng tới mùa , cây nở hoa, kết trái thì vợ chồng tôi ra vườn sau đi nhìn từng nhánh, từng đóa hoa, chờ cho tới ngày cây đơm trái…nhìn những đọt rau thơm. Chúng tôi hái từng loại trái cây cùng ăn, cùng khen ngon ngọt…Chúng tôi có những cọng rau thơm cho một buổi cả nhà ăn bánh xèo…

Cách đây mấy tuần vợ tôi trở bịnh, lúc tôi còn ở Việt Nam và sắp tới ngày trở về.Tôi biết căn bịnh của vợ tôi trở lại lần nầy khá nghiêm trọng. Tuy nhiên chỉ còn đôi ba ngày nữa, tôi e khó đổi vé bay, nên nán lại…Chỉ việc nầy thôi làm vợ tôi giận hờn và trách cứ…!

Bây giờ vợ tôi phải điều trị lại và phải có sự châm sóc đặc biệt. Con gái tôi nói: “Thôi! Để má về ở với con, con sẽ xin nghĩ vài tháng để lo săn sóc và nấu ăn cho má. Nhà con thích hợp hơn. Khi má khoẻ lại sẽ về nhà ba…”

Mấy mươi năm chung sống. Mấy mươi năm gầy dựng gia đình, nuôi dạy con cái thành người lớn khôn và thành đạt nơi xứ người. Cho dù đời sống chung đụng vợ chồng sao tránh khỏi va chạm, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua…Cái nghĩa tình mấy chục năm gắn bó, làm sao mà dể bức rời.! Đến tuổi hưu, đáng lẻ chúng tôi cùng sống khoẻ mạnh bên nhau để hưởng những ngày còn lại của cuộc đời, cùng chia sẻ vui buồn trong cái quỷ thời gian còn lại không bao nhiêu. Cơn bịnh lần nầy sẽ làm sự sống của vợ tôi đau đớn và bất ổn…Sự kiện nầy làm tôi tan nát cõi lòng và ân hận.

Hôm nay ra vườn sau. Trời vào Xuân đã lâu. Các loại rau nức đất, trổi mình sau mùa lạnh giá, các loại cây ăn trái với chồi non xanh, hoa kết nụ…. Cây cam, cây quít, cây táo… hoa rụng cánh sắp kết trái. …Tôi đi thơ thẩn trong nỗi buồn buồn ray rức. Nhìn lên các cành cây, tôi nói thầm: Hoa ơi! đừng kết trái, năm nầy vắng người vợ thương yêu…Mùa nầy đâu có ai cùng chia sớt niềm vui…!!!

Mùa nầy hoa nở…thôi thành trái

Lòng ta rụng nát những niềm đau

Em ơi! vườn vắng em rồi đó

Hoa trái mùa nầy…Thôi tàn mau!

Cảm giác bềnh bồng

Mùa Đông đến. Khi tôi ngồi uống tách cà phê sáng ngoài hiên sau nhà, nhìn bầu trời như thấp xuống với những đám mây phù thủy vạn hình không rỏ nét. Những cành cây khô trong mù sương đứng trơ trơ, trân mình trong cơn lạnh. Tôi mường tượng một điều gì đó rất xa xăm. Tôi hơi hụt hẩn trong mỗi lần mò về quá khứ.

Bên nhà hàng xóm có tiếng vọng âm thanh của bài hát “Bài Thánh Ca Vô Cùng”. Tôi chợt nghĩ “Mùa Noel” sắp về…Và nhớ về mùa Noel năm xưa…

Trước đây còn đi làm ở một cửa hàng bách hóa. Cứ gần đến Noel là họ mắc dây đèn, trưng bày cây Noel và hàng hóa cho mùa lể gần cả tháng trước. Các món hàng được hứa hẹn là on sale trong ngày 24 tháng 12 và sau ngày 25 tháng 12. Ngày Lể coi như hiện diện ở tôi với chiếc mũ đỏ của ông già Noel để làm dậy lên cái không khí mua bán nhộn nhịp của cái thương hiệu Super Walmart.Từ ngày nghĩ việc về hưu, tôi chỉ lặng lẻ nơi căn nhà, ít muốn giao lưu với ai. Mỗi sáng ngồi uống café một mình. Mỗi ngày lên máy computer để xem tin tức, lướt qua Facebook và viết một vài câu thơ hoặc viết tiếp cái truyện còn dang dở.

Mỗi ngày tôi bềnh bồng với những mớ hoài ức khi nhìn ra ngoài trời mây. Mây cũng bềnh bồng theo từng ý nghĩ chập chùn gợi nhớ...

Khi ngồi trước khung máy. Tôi bềnh bồng với hình ảnh, chữ nghĩa. Tôi bềnh bồng với những nghĩ suy. Tôi theo với những dòng chữ. Tôi theo với ngón tay đưa đẩy con mouse. Tôi theo với cái kéo mủi tên lấp thêm mớ chữ vào bài viết. Ở đó là quá khứ. Ở đó, là hình ảnh của một thời rất xa xưa. Ở đó, là từng chập mây khói bay qua trong cảm giác và hiện rỏ qua dòng chữ. Có khi tôi chợt khóc. Có khi tôi chợt vui. Có khi tôi xao xuyến. Có khi tôi rạo rực. Có khi tôi ngộp thở...Tôi miên mang với từng ngón tay trên phím chữ. Ký ức dội về trong “Dòng Trôi Cuộc Đời”…Bản thảo viết về cuộc đời của tôi.

Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ ngưng tay. Rồi đây. Có một ngày, tôi sẽ hết còn suy nghĩ.Tôi thả thân nằm xuống, xuôi bỏ cuộc đời..! Lúc nầy hồn tôi sẽ bềnh bồng vào cõi hư vô. Hiện tại và quá khứ sẽ chỉ còn ở lại với những dòng chữ bềnh bồng…Không biết có đáng giá gì không? Nhưng ít ra tôi biết, tôi đã làm một điều mà tôi rất thích.Chỉ có vậy thôi…!

LÀM NGƯỜI CHÂN CHÍNH

Viết tặng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Tôi vốn người gốc miền Tây Nam Bộ,…Thuở nhỏ tôi mê văn Hồ Biểu Chánh, tôi khoái văn vẻ của ông Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, sau nầy là Hồ Trường An. Tôi thích cái mộc mạc của người miền Nam, đặc sệt những âm điệu dân dã qua các câu chuyện. Sau nầy khi lớn lên, tôi đọc nhiều tác phẫm của các nhà văn khắp xứ của miền Nam trước năm 1975. Nhưng cái cảm giác ăn sâu vào tâm não vẫn là những tác giã mà tôi thích như nói ở trên. Khi ra nước ngoài tôi mang theo một số tác phẫm còn ít oi sót lại trên kệ sách để ở nhà của ba má ở dưới quê, những trang sách với những chữ in bằng khung in chì trên những trang giấy in đã biến thành úa vàng…Tôi trân quí các quyển sách đó và lâu lâu đem ra đọc…Lúc đọc, tôi bắt nhớ nhiều thứ vụn vặt vào cái thời thanh niên mới lớn của mình, như khi ra nhà sách Khai Trí, đi chộn rộn vào những chiều thứ Bảy qua những kệ sách bên dưới cho tới tần lầu phía trên….Thời gian đó tôi tập sự viết văn, thay vì làm thơ như mọi khi…Tôi muốn viết theo phong cách của những nhà văn mà tôi thích. Tôi viết đâu đó vài cái truyện ngắn…Tôi đọc đi đọc lại thấy kỳ kỳ, rồi xé bỏ vì muốn bắt chước mà không được…văn nó phát ra từ nguồn cảm hứng và thể hiện bản chất tự nhiên của người đó, bắt chước làm gì, mà có được cái giãi gì đâu…?Nghĩ vậy tôi bỏ viết truyện luôn. Sau nầy tôi có viết lại nhưng là từ cách viết nhật ký, rồi quen dần viết truyện ngắn qua cách thể hiện như viết nhật ký…viết từ cuộc sống của tôi và tôi vui vẻ ở lại với dòng viết nầy…

Khi qua Mỹ, vì bận bịu với công ăn việc làm, tôi đã bỏ hết thú đọc sách và bỏ luôn chữ nghĩa. Tôi chỉ đọc thoáng qua mấy tờ báo biếu về tin tức và vài mẫu chuyện cũ in lại. Cho đến một hôm ra nhà sách, tôi cầm lên một quyển sách mỏng với tựa là “Cánh Đồng Bất Tận”. Anh chủ quán ngó về phía anh và nói:Anh mua quyển nầy về đọc đi, anh bạn của tôi mới về Việt Nam mang qua vài cuốn cho tôi bán thử.Vốn là người không ưa mấy quyển sách của các tác giả viết sau năm 1975 vì đa số viết theo chánh sách và chỉ đạo của nhà nước. Tôi tò mò lật đọc vài trang…Tôi lại đọc tiếp, một sự thu hút quá nhanh đến với tôi qua những dòng chữ đặc sệt miền Nam.Tôi ngưng đọc và thầm nghĩ phải mua quyển sách nầy về nhà đọc mới tận hưởng hết những cảm giác mà từ lâu rồi tôi mới bắt lại được…Từ đó tôi đâm mê giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư và viết thư về cho đứa cháu ở Sài Gòn tìm mua các quyển sách mà Nguyễn Ngọc Tư đã xuất bản gời qua bên nầy để đọc. Thời gian sau nầy khi bắt trớn viết lại, tôi hay làm thơ, viết văn và giao lưu trên Net…Cách đây hơn 2 năm, tôi bắt gặp Nguyễn Ngọc Tư trên Face Book và mò tìm thấy Bloggs của cô. Tôi liên kết vào trang Bloggs của Tư và từ đó tôi đọc bài viết của Tư trên Net. Biết cô còn trẻ, sinh sau năm 1975, tôi càng ái mộ cô về cách thể hiện tâm trạng của cô qua các bài viết ngắn, rất đổi đời thường, nhưng phản ảnh được cái xã hội của miền Nam sau năm 1975, nhất là các đề tài quanh quẩn nơi cô sinh sống, đất Cà Mau…Nơi chốn, sau 1975 tôi là một người tù”Cải Tạo”. Đầm mình trong những tháng ngày nơi vùng đất U Minh “Muổi kêu như sáo thổi-Đỉa lềnh như bánh canh”.Thời gian nầy tôi tiếp xúc được với người dân U Minh.Ban đầu họ còn xa cách và hận thù với những người của chế độc cũ, dần dà họ thân thiết và thật sự có cái nhìn khác về những người lính VNCH.Có một dịp ghé nhà một người dân., tôi thấy một em bé cở hơn 10 tuổi, ngồi cậm cuôi viết chữ I,T, một em lớn hơn chắc là chị của bé đang ngồi trả lời vài câu hỏi trong bài văn.Tôi thấy thương cho các em, tới tuổi nầy mới được cấp sách đến trường. Thấy tôi nhìn vào trang sách, em nói:Chú ơi! dùm góp ý với cháu để trả lời câu hỏi nầy “ Trong thời chiến tranh, một anh du kích giết được 4 tên lính ngụy, một anh khác giết thêm 5 tên lính ngụy…câu hỏi:Vậy ta đã giết tổng cộng được là bao nhiêu tên lính ngụy”.Tôi đọc câu hởi với sự khó chịu trong lòng mà không nói gì cả.Tôi buồn buồn cho một thế hệ con trẻ với cái lối dạy dổ lòng câm thù và nuôi lòng câm thù của nhà cầm quyền mới cho các cháu mà thực sự các cháu không biết.Thấy tôi ngần ngừ, mẹ của cháu nói:Mầy ráng làm đi đừng hỏi chú ấy…!

Thời gian trôi qua, bây giờ tôi đọc Nguyễn Ngọc Tư trên Net, tôi chợt nhớ về chuyện cũ, vào thời đó chắc cô cũng chỉ vài tuổi và cũng từng học như vậy khi đến tuổi đi học…Bây giờ cô lớn lên, cô thực sự thấy bao điều của vùng đất cô ở, những thay đổi quá ngao ngán của một xã hội “Ưu Việt”mà sản sinh ra những con người quá dã man, những con người cho là vĩ đại mà rất đốn hèn…Những bài viết của cô làm tôi say mê đọc. Với một gốc nhìn không quá bi quan về những mầm non trổi lên mạnh mẻ trong bùn đất, bật lớn tươi tắn dưới ánh mặt trời chân lý, làm một con người chân chính trong một xã hội đầy dẩy bất lương.


MÙI TẾT

Hồi còn nhỏ, ở quê nhà…Lúc đó tôi cỡ hơn 10 tuổi.Mỗi năm cứ vào gần hết tháng 12, gió từ cánh đồng phía tuốt ngoài ruộng, sau nhà thờ Tin Lành thổi về với mùi rơm rạ còn mới.Mùa lúa vừa gặt xong còn trơ những gốc rạ và những vũng nước bùn.Cái mùi nồng nồng, hăng hắt đưa vào hai cánh mũi của tôi.…Gió từ bờ sông phía bên kia nhà lồng chợ, cũng đưa thêm về cái man mát gay gây. Những cơn gió cuối năm đôi khi thốc mạnh làm cuộn lên những dề cát cuốn ụp vào người, tôi bụm hai tay che mắt. Lúc đó, tôi nôn nao trong lòng vì biết rằng Tết sắp về…Ba má sẽ sắm cho tôi bộ đồ mới.Tôi sẽ có một mớ tiền lì xì từ ba má và bà con thân thuộc…

Bọn trẻ con chúng tôi thì mừng rở, còn người lớn thì cứ than thở : “Mới đó mà Tết tới nữa rồi…!”. Người lớn thi tất bật gồng gánh, buôn bán quanh năm…công việc cứ bề bề ra, lo chưa xong thì Tết lại đến. Bọn con nít như chúng tôi thì lại mong Tết về…đâu biết gì mà lo…

Gần sát ngày Tết, mặc dù vẫn còn bận rộn với công việc buôn bán, má tôi cũng dành thời gian lo ngâm gạo, ngâm nếp, phơi lá chuối để gói bánh ích, bánh tét. Chưng xong bánh tét, bánh ít đem treo trên giàn, thì đến lo đánh bột làm bánh bông lan…

Lúc còn nhỏ, tôi thường quanh quẩn bên má để giúp má hoặc để má sai vặt. Là đứa con trai lớn trong nhà, tôi thấy má làm một mình cực quá nên không nở bỏ đi bắn cu li với bạn bè mà ở nhà phụ một tay với má. Nồi bánh Tét xôi ùn ục…má kêu tôi thêm củi, tôi đút từng thanh củi vào lò. Má mở nấp nồi thăm chừng. Khói bốc lên nhiều, má nghiêng đầu tránh hơi nước nóng, lấy cây đủa dài xốc trở. Mùi lá chuối xông lên nghe thơm phức. Gần ngày Tết hơn nữa, má cân bột, đếm trứng để làm bánh bông lan, thì tôi phụ đánh trứng, đánh bột. Công việc phụ trợ của tôi được má thưởng cho ăn mấy cái bánh thử nóng hổi hoặc mấy cái bánh bông lan quá lửa, hơi đen đen nhưng thơm phức mùi vanila.

Ba bớt đi giao hàng vì cận Tết, ngồi tính sổ sách cuối năm. Hai bên trước cửa nhà, ba đặt hai chậu bông cúc nở vàng.Trên bàn thờ thì ba chưng bông vạn thọ. Cả nhà tôi thơm mùi bánh, mùi hoa, mùi nhang.

Người lớn ai ai cũng xem ra bề bộn lo lắng, còn bọn trẻ chúng tôi thì thấp thõm đợi ngày 30 Tết được tắm rửa sớm hơn mọi ngày và được ba má để sẳn bộ đồ mới cho ngày mai mặc đi chơi.

Đêm 30 má lo sẳn một dĩa trái cây “Cầu, Dừa, Đủ, xoài(Xài)”và một bình cấm bông vạn thọ. Đúng 12 giờ khuya, phía bên nhà thờ Tin Lành giựt chuông tinh toong. Ngôi chùa Phật phía bên sông đánh trống, bổ chuông in ỏi. Má lâm râm khấn vái trước bàn thờ đặt trước sân. Ba đốt dây pháo đỏ treo trên nhánh cây trước nhà, châm ngòi nổ đì đùng…Cả xóm chợ đâu đâu cũng đì đùn tiếng pháo.Tụi con nít chạy hết nhà nầy qua nhà khác lượm pháo lép hoặc chưa nổ kip bỏ vào túi áo…Có đứa vô ý bỏ vô cái pháo còn đang cháy ngòi, pháo nổ làm cháy áo, phỏng bụng.

Mùi Tết, mùi nhớ quê hương. Mấy chục năm rồi xa xứ. Khi hết tháng 1 mùa Đông còn đang lạnh, máy sưởi trong nhà chạy suốt đêm ngày. Căn nhà trống hoe.Vợ chồng còn tất bậc với công việc ở hảng xưởng. Con cái thì đi học….Đến cận ngày Tết Ta thì mới chạy ra chợ mua bánh chưng bánh tét và vài chậu bông đem về chưng bàn thờ. Chuẩn bị nấu vài món ăn truyền thống như thịt kho, dưa giá…Mùi vị ngày Tết không còn …chỉ còn là nỗi hoài nhớ…Khi qua đêm trừ tịch, hai vợ chồng ngồi nhắc chuyện ngày xưa. Đêm 30 đi qua…Ngày mai lại tiếp tục đi làm, con cái đi học. Bàn thờ cúng cơm ông bà chỉ là cái bằng chứng để lại với khói nhang thơm nhẹ…Mấy đứa nhỏ còn cằn nhằn “Ba má đốt nhang nên mở cửa… Tụi nhỏ sợ khói nhang làm ngộp thở và hôi nhà…Kêu tụi nó khấn vái trước bà thờ ông bà thì tụi nó chỉ đốt một cây nhang, chấp tay xá xá cho qua việc. Có khi chúng đi làm, đi học thì chỉ hai vợ chồng dọn bàn cúng lạy…mà cũng chỉ nán lại trước bàn thờ vài phút rồi đi lo công việc khác.

Người lớn thì cố giữ lại truyền thống Tết được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu.Còn tụi nhỏ thì…khó quá! Tôi đâm nghĩ “Khi đám già cuốn gói về đất hết thì chắc tụi nó cũng quên cái vụ Tết nhứt nầy “Thật ra thì tụi nhỏ đâu có cái mùi Tết như mình có hồi từ thuở nhỏ đế mà nhớ…!

HỐI HẢ CUỐI ĐỜI

Trong đời người có biết bao nhiêu lần hối hả. Có những hối hả lo toan, nếu mình chưa hoàn tất với cái mức quy định của công việc hoặc thời gian thì mình có thể làm tiếp sau đó.Tuy nhiên có một sự hối hả mà mình phải hoàn tất, nếu không thì mình sẽ không có cơ hội để hoàn tất. Đó là sự hối hả của những ngày gần cuối cuộc đời. Quỹ thời gian của cuộc sống không còn bao nhiêu.Sự bất chợt rủi ro của tuổi già có khi vô chừng, khó đoán, cho nên sự hối hả như một điều thúc đẩy người tôi cố nghĩ, cố lọc lựa những gì mình cần phải hoàn tất trong khi có thể làm được, còn chừa một khoảng rủi ro nào đó mà thần chết giáng xuống mình bất thình lình.Cái quan trọng mà tôi phải làm trước đó là món nợ văn chương vướng lụy mấy chục năm qua, từ lúc biết làm thơ, viết nhật ký của tuổi 15, cho đến nay tóc đã nghiêng màu trắng. Cuộc bể dâu đã làm cuộc đời tôi nổi trôi thăng trầm. Cùng với thăng trầm đó là những dòng văn, những dòng thơ được trải ra trên giấy năm xưa và trên dòng Net ngày nay.

Tôi muốn nó ở lại đời khi tôi ra đi.Tôi muốn nó ở lại với thân quyến, bạn bè và theo linh hồn tôi về tận miền miên viển nào đó.

Tôi viết vì tôi, vì người thân và bạn bè.Tôi không ham muốn làm nhà văn, nhà thơ.

Tôi là một người muốn trải lòng ra để giải tỏa nỗi lòng cho chính tôi và chia sẻ với những người thương mến tôi bằng chữ nghĩa.Còn lại những thứ khác, nếu tôi chưa làm hết thì có người khác làm thế cho tôi.

Tôi muốn chính tôi phải hoàn tất những dòng chữ mà tôi đã viết, thành từng tập.

Tôi muốn được nhìn thấy nó đã thành hình.

Chỉ duy nhất có điều nầy làm tôi hối hả để hoàn tất trước lúc chia tay với đời sống nầy.

TÌNH NET

Ngày xửa ngày xưa, lúc còn mài đủn quần trong lớp học. Lúc đó khi yêu nhau người ta thường viết thư trao đổi tình yêu qua trang giấy học trò, kha khá hơn nữa là những mảnh giấy màu mõng. Thông thường rất kín đáo trao cho nhau bằng tay chứ ít khi gởi bằng thư từ, vì sợ bị lộ Khi ba má bắt được thư thì có mà bị tẩm quất hay la rầy một trận: “Còn nhỏ mà không lo học hành…ở đó mà yêu…Từ nay phải chấm dứt nghe con….phải lo học hành trước đã…” nghĩa là cha mẹ có quyền cấm con cái đi vào đường yêu đương và dỉ nhiên mấy tờ giấy viết sẽ bị xé nát và cho vào sọt rác. Tình yêu trai gái thuở đó cũng thường chỉ quanh quẩn trong xóm làng, quẩn quanh nơi phố chợ, ít khi xa ngàn dậm…? Với đà phát triển nhanh của khoa học qua các bàn máy vi tính và qua hệ thống Net, sư liên kết của con người vượt xa khoảng cách, vượt biển trời bao la để tìm đến nhau qua E-mail, tin nhắn. Các bậc cha mẹ ngày nay không còn kiểm soát con cái theo cái kiểu ngày xưa nữa, mà có kiểm soát cũng không được, đành phải chấp nhận một cách miển cưởng, bó tay, đành chịu…!

Các trang nối kết như hệ thống của các nhóm trên yahoo.com các trang mạng liên kết như facebook…đã làm mọi người trên khắp thế giới gần nhau hơn, thư từ, tin nhắn, hình ảnh chỉ chuyển trong tích tắt….Từ đó hình thành những mối tình ảo, vượt không gian mà yêu nhau. Sự trao đổi đôi lúc màu mè công chúng (public) sau đó chuyển qua nơi kín đáo hơn bằng Chát (Messenger). Có nhiều mối tình Net đến với nhau dịu dàng trên Net và rồi sau đó hẹn hò gặp mặt nhau, đôi khi hợp ý thì tiến tới hôn nhân thật sự, cũng có những quái quâm vở khóc vở cười khi đối diện với sự thật phủ phàng, hình em, anh trên Net thì quá đẹp…hoặc trí tưởng tượng về người yêu quá toàn vẹn, khi gặp nhau bị vở mộng…Chẳng hạng nàng hoặc chàng đi đứng cà thọt, ăn nói thì ấp a ấp úng ngọng nghệu…Có những mối tình chỉ cốt bẹo kéo nhau để cho qua buổi trng vắng của những ông bà ở tuổi về hưu, có nhiều thời giờ ngồi trước máy vi tính chát để đốt thời gian. Cũng có những cảnh ông bà đang sống ung dung với nhau mà lại ngoại tình trên Net. Ông một cái máy, bà một cái máy mặc tình mà chát yêu, chát quái. Mỗi người tìm thời gian thích hợp mà chát để khỏi bị lụy phiền, để khỏi bị khám phá…!Tân tiến hơn, mỗi người có một cái máy điện thoại thông minh…lúc nầy mặc tình mà liên kết, ở mọi nơi, ở mọi lúc, tha hồ ông chát, bà chát, con chát, rể chát, dâu chát…mọi người đều có cơ hôi ẩn náo riêng tư mà liên kết với nhau.

Tình yêu trên Net lại hình thành nhiều tình huống khác nhau và từ đó nở rộ ra các nhà thơ, nhà văn bất đắc dỉ với những bài thơ, bài văn gạ trao tình yêu vô cùng lãng mạng, đôi khi vô cùng Sến hằng ngày dán lên các trang mạng. Xin mở ngoặt phân ra các bậc đàn anh, các bạn văn, thi sĩ thực thụ dán lên nhiều bài viết rất giá trị để trao đổi với nhau. Nhờ đó tôi hân hạnh gặp được nhiềc bậc đàn anh, đàn chị v à bạn bè mà tôi rất quý mến. Cũng từ trên Net, có nhiền vụ lừa đão tình yêu….phờ phỉnh tình yêu xảy ra…tình ảo mà….có ai kiểm tra được đâu?! Mà thực ra có chết thằng Tây nào đâu với mấy dấu hiệu trái tim gởi cho nhau kèm qua các lời nói âu yếm…sống động hơn là những con vật nhả ra hằng hà sa số trái tim yêu qua ảnh gif. Có mất đồng nào khi gởi những bó hoa hoặc quà cáp trên Net. Ôi thời đại tân tiến! Ôi thời đại tình Net, tình Ảo… Thôi thì cứ phất phơ vào Net để đốt thời gian nhàn hạ. Mua vui cũng được một vài trống canh!Phải không các bạn?


MỘT MÌNH

Từ ngày bà xã tui xách gói đi ngủ riêng tới giờ …tôi cảm thấy mình thoải mái hơn. Chẵng là vì, khi lớn tuổi lúc trở trời trở gió mình mẩy ê ẫm, xương cốt hết đau khớp nầy, chạy qua khớp khác. Đêm ngủ chung giường với bà xã nhiều khi lấy tay đấm chồ nầy, bóp chổ khác trên cơ thể mình, hoặc xoay trở lặn lộn cho đở mõi…Bà xã tức mình càu nhàu “Cái ông nầy làm gì mà rục rịch sáng đêm làm sao người ta ngủ được!”.Tránh lời rên rỉ của bà xã…tôi cố gắng trân mình chịu đau hoặc trở mình nhè nhẹ. Nhưng làm sao khỏi nhúc nhích đôi chút được…!Mặc dù tôi đã mua chiếc nệm theo quảng cáo: Ông nhúc nhich–bà không bị nhúc nhích. Bà xã của tôi vẫn phàn nàn vì sự lăn trở của tôi.Tôi hơi quạu bởi vì mình cố gắng chịu đựng cái thân thể bất tuân như ý rồi mà còn bị cằn nhằn hoài. Tôi nói: “Tại bà khó ngủ chứ đâu phải tại tôi…hồi nẫm đôi khi ngủ say sưa bà còn ngáy khò kho.Tui có nói gì bà đâu? Vợ tôi nói: Hồi đó khác, bi giờ nầy khác…!Tôi chịu lép vế nằm làm thinh.

Ban đêm vì không ngủ được tôi cứ ngồi bật dậy đi tiểu…cái gì quá kỳ cục, cứ đi tiểu vừa xong vào giường nằm một chút lại muốn mắc tiểu nữa….Bà xã cầu nhàu “Cứ leo lên, bước xuống giường và dội cầu hoài làm sao ai mà ngủ cho được…!Đi khám bác sĩ đi.Coi chừng bị ung thư tuyến tiền liệt đó.(Chuyện nầy khỏi lo vì tôi đi khám rồi…tại uống nước nhiều-khi ngủ hỏng được thường là như vậy…).

Chưa kể nhiều khi xem một cái phim hay, mình muốn coi cho hết, bã rên rỉ: Làm ơn tắt cái TV cho người ta ngủ...ngày mai còn phải đi làm.Tôi cụt hứng tắt cái TV.

Còn nữa, tôi hay hứng tình với nàng thơ. Khi một ý thơ nào đó hay hay hiện ra trong đầu, tôi bậc cái máy vi tính lên và ngồi hằng giờ để làm thơ hoặc viết truyện… luôn thể đọc mail của bạn bè gởi cho mình và trả lời, đôi lúc đọc nhiều bài thơ hoặc bài viết hay mình góp ý. Vợ tôi lại than thở tiếp vì mấy tiếng cộc cạch của bàn phím khi tôi gỏ chữ.

Nhiều lúc bà xã tôi lại tò mò xem tôi làm cái gì trên máy vi tính mà ngày nào cũng mở máy và ngồi ngâm rất lâu. Vợ tôi nghe câu chuyện mấy lão niên cứ lên mạng chát chiếc với mấy em “Cỏ Non” ở Việt Nam…lâu ngày đâm mê mệt và hẹn hò kiếm chuyện về bên đó mà du dương.

Có một ông sau khi đi về Việt Nam nhiều chuyến, khi trở lại Mỹ tuyên bố ly dị bà vợ tắm mẵm ở bên nầy. Dĩ nhiên của cải do vợ chồng gầy dựng bấy lâu bị chia tứ tán. Con cái lớn khuyên cha, nhưng vì quá mê “Cỏ Non” ở Việt Nam rồi nên nhất quyết không nghe ai hết. Chàng già về xứ Việt làm đám cưới linh đình và bảo lảnh em sang Mỹ. Bà vợ mất một căn chung cư… để ông chồng đem con vợ nhí sang hú hí. Buồn quá bà đâm ra điên điên bởi lẻ ông chồng của bà rất hiền lành, sống mấy chục năm ông luôn là người chồng gương mẫu.Hai vợ chồng mở tiệm Nail &Tóc, bà bận rộn với việc làm, ông tận tụy giúp bà từ việc lớn đến việc nhỏ.Hai người chí thú lo làm ăn nên mua được một căn nhà và sau đó là một dãy chung cư gồm 10 căn hộ.Suốt ngày ông cứ quanh quẩn ở tiệm giúp bà điều hành công việc.Tối đến ông làm sổ sách. Bà rất thương yêu chồng và tin chồng hết mực…nhưng ở đời ai đâu có ngờ! Người lù đù “Vát lu mà chạy” ít nói như ông chồng bà lại giở chứng hồi nào mà bà không biết được.Chừng đổ bể ra sau mấy chuyến về thăm bà mẹ già của ỗng còn ở Việt Nam…Ông đòi ly dị và chia của.Bà giử căn nhà và cái tiệm, còn ông thì giử cái chung cư.Bà vô cùng đau khổ vì sự bất ngờ nầy nên đâm ra như người mất trí. Bà tức khí vì mất ông chồng thương yêu rất mực của bà“ Đồ con “quỉ cái cướp chồng bà còn nhởn nhơ hưởng phần mồ hôi nước mắt của bà…trước mắt bà!”.

Tôi không đồng tình với mấy việc như vây.Vợ chồng tay dắt, tay níu con thơ với hai bàn tay trắng sang đây.Vợ chồng xây dựng gia đình từ con số không.Tính từ thời gian bước đầu đến khi cơ ngơi khá ổn định, con cái học hành đỗ đạt và có việc làm, đó là công lao lặng lôi thân cò của vợ chồng tôi trên đất mới nầy.Với tôi…tôi rất trân quý những ân tình của vợ tôi đã khổ cực từ lúc đời tôi đầy gian nan khi còn trong nước và đã góp tay khó nhọc cùng tôi từng năm tháng xây dựng tổ ấm nơi xứ người nầy. Ai mà lại vô cảm-vô tâm phụ rảy ân tình nầy.Tuy nhiên “Ớt nào là ớt không cay- vợ nào là vợ chẳng hay ghen chồng” Với sự nghi ngờ và có thể cũng để đề phòng trước vì thấy tôi sao cứ tối ngày lên mạng hoài nhiều lần vợ tôi nhìn vào khung màn ảnh máy vi tính phía sau lưng tôi để dò xét.Tôi nghĩ chắc mẫm là bà xã tôi nghi ngờ tôi chát chiếc với ai đó, có bao giờ bà xã tôi tò mò để xem văn vẽ của tôi đâu!.Chưa bao giờ thơ văn của tôi lọt vào đôi mắt của nàng…! Mặc tôi mơ mơ, màng màng những chuyện năm xửa năm xưa với nhiều hồi tưởng qua những dòng thơ tình sướt mướt hay tưởng tượng một câu chuyện tình lâm ly nào đó để kết thành văn vẻ đậm tình éo le–lâm ly hoặc đổ vỡ.Tôi đoan chắc vợ tôi chẳng thèm ngó ngàng đến thơ văn của tôi cho dù có đem quyển thơ hay quyển văn của tôi đặt trước mặt.Nhưng từ ngày bà xã tôi giao lưu với bạn bè trong trang Web Trung Học Chợ Lách…tôi có bài vỡ tham gia.Bạn bè của vợ tôi đọc bài của tôi không biết khen thiệt hay chỉ động viên…bà xã cũng dừng mắt đọc thơ văn của tôi cho biết sự tình….Cám ơn trang Web vì tôi có một đọc giã bất đắc dĩ:VỢ TÔI!…!

Người ta thường nói: Sự thành công của người chồng luôn luôn có bóng dáng của người vợ hổ trợ. Tôi nói trại ra: “Sự thành công của các người cầm viết (Văn-Thơ-nhạc-kịch ) phía sau luôn luôn có bóng dáng của các người vợ thông cảm và chịu đựng”. Trong một cuộc phỏng vấn, vợ của nhạc sĩ Anh Bằng có nói: Ổng đi đâu thì đi và làm cái gì thì làm…khi về nhà ổng là của tôi là được rồi…”.Riêng bà xã tôi thì nói: Ông làm cái gì thì làm…nếu lựng bựng gì đó với ai… hể tôi biết được là tôi cho ông đi tàu suốt.Hồi trẻ mình rơi có người hứng lấy còn bây giờ già khú đế rồi ai mà lượm…!Lời phán hơi nặng ký như vậy…có ngán không quý bạn…? Tôi ngán lắm đó…cho nên néu lỡ ăn vụn thì chùi miệng liền hà!

Từ lâu tôi có thói quen …khi đang say sưa với những dòng thơ hoặc lời văn đang hiện ra trong đầu rồi gỏ những dòng chữ hiện ra trên màn ảnh mà bị ai đó dòm ngó là tôi mất hứng và bị khựng lại…Một hôm không dằn được cơn bực bội .Tôi nói với vợ tôi: “Từ nay tôi muốn bà để tôi yên khi ngồi vào bàn máy vi tính làm việc nghe...! Bà xã giận bỏ đi một nước và nói: Ừ tôi đi ngủ riêng…để ông thanh thơi muốn làm gì thì làm…! Và vợ tôi thu dọn ra phòng riêng từ hôm đó.

Chúng tôi ngủ cách ly nhưng sinh hoạt gia đình cũng đều hòa. Mấy đứa con biết lý do má tụi nó ra riêng không phải vì chúng tôi giận hờn nhau mà vì lý do tôi lớn tuổi khó ngủ cứ cựa quậy lung tung làm má tụi nó ngủ hỏng được…!

Mấy ngày đầu ngủ một mình, tôi thấy thiếu thiếu hơi hướm ba xã…vì mấy chục năm ngủ chung giường với nhau rồi chớ bộ …!“Thia thia quen chậu-Vợ chồng quen hơi” mà. Nhiều đêm giật mình mở mắt nhìn bên cạnh, thiếu bà xã cũng thấy lạnh lẻo cõi lòng “Ghe lui còn để dấu dằm-Người thương đi vắng dấu nằm còn đây”.

Mấy lúc sau nầy bà xã tôi hay đi chùa nghe các thầy thuyết pháp. Hồi trước ăn chay một tháng 4 ngày…dần dà ăn gần suốt tháng. Bà xã tôi khoe:Từ ngày ăn chay đến giờ thấy trong người được khoẻ hơn: đường, mỡ, trong máu giãm, ấp xuất huyết giãm.Thế là vợ tôi gần như trường chay. Phòng của vợ tôi gần như là tịnh thất…

Vợ tôi ăn chay, đọc kinh, đi chùa và ngủ chay. Dỉ nhiên tôi cũng đành ngủ chay dài dài…!Tôi tập ăn chay để giãm nhiệt cơ thể cũng chưa đến nỗi của tôi…hơi ngặt chứ bộ…!Nhưng lâu dần cũng quen!

Một mình trong căn phòng rộng, trên chiếc giường King-size(Giường lớn dành cho vợ chồng ngủ chung) tôi thoải mái tự tung tự tác: Đấm lưng, đấm bóp chân tay thả ga, đôi lúc ngồi lên nhấm mắt tọa thiền hoặc uốn éo cho phẻ gân cốt ...không sợ ai rầy rà. Nhiều phim hay cứ thoải mái xem cho tới hết…Bật máy vi tính cộc cạch thỏa thích để làm thơ tình, viết truyện yêu đương… Khi ngồi vào bàn cầu ...đọc báo, đọc thơ cũng không ai hối thúc.(Cái thú đọc mọi văn tự mà tôi vớ được khi vào nhà vệ sinh là một thói quen của tôi khó mà bỏ được). Kể ra Một Mình đâu phải cô đơn...!

Huỳnh Tâm Hoài

Cali đầu năm dương lịch 2014